Thưa ông, nhìn lại lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam kể từ khi giành được độc lập năm 1945, theo ông, đâu là những dấu mốc quan trọng đã định hình nên diện mạo kinh tế đất nước ngày nay?
Theo tôi, lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam có những chặng đường mang tính quyết định. Trước hết, phải nhấn mạnh mốc son giành được độc lập năm 1945. Đây là nền tảng chính trị và kinh tế tối quan trọng, giúp chúng ta độc lập hoàn toàn, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, về kinh tế, mốc năm 1987 với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là một bước đi mạnh bạo và cởi mở. Trong bối cảnh một nền kinh tế tự cung tự cấp, việc mở cửa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho các nước đầu tư vào Việt Nam là bước đi mạnh bạo, đã giúp Việt Nam thu hút được một nguồn vốn bổ sung quý giá.
Ba là, giai đoạn 1991-1995, Việt Nam tự do hóa mạnh mẽ hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc thành lập ngân hàng hai cấp, tự do hóa giá cả và cải cách chính sách lãi suất, tỷ giá đã tạo ra một bước ngoặt cho sự vận hành cơ chế thị trường của toàn bộ hệ thống tài chính. Có thể nói, đây là một bước cải cách theo kiểu “Liệu pháp sốc” thời điểm đó. Kết quả quan trọng là nền kinh tế không bị sa vào bất ổn, nhất là lạm phát cao, đồng nội tệ mất giá trầm trọng kéo dài mà nhiều nước chuyển đổi khác đã từng gánh chịu.
Trong giai đoạn này, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với hai đối tác lớn nhất là Trung Quốc và Mỹ. Đây là một thành tựu đạt được giúp chúng ta phá thế bao vây cấm vận kéo dài, bảo đảm nguồn cung ứng đầu vào sản xuất (nhập khẩu) và đầu ra (xuất khẩu) lớn nhất cho Việt Nam.
Bốn là, từ năm 2006 đến 2019 đánh dấu thời kỳ hội nhập sâu rộng của Việt Nam. Năm 2006, việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã mở ra một chương mới về hội nhập thương mại đa phương, giúp Việt Nam tham gia vào sân chơi toàn cầu. Với hai đối tác lớn nhất, chúng ta đã có những Hiệp định Thương mại song phương (Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ) và đa phương (thông qua ASEAN, như Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc), sau đó là một loạt Hiệp định Thương mại tự do với Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc...
Năm là, từ năm 2019, Việt Nam tiếp tục tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)... Việc tích cực, chủ động hội nhập này đã giúp chúng ta đa dạng hóa thị trường, khai thác lợi thế thương mại tự do và đứng vững qua các giai đoạn khó khăn như đại dịch Covid-19, hay xung đột thương mại gần đây.
Sáu là, từ năm 2024 đến nay có thể gọi là một cuộc “đại cải cách” hệ thống hành chính và thể chế Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta cải cách đồng bộ hệ thống hành chính, tinh gọn bộ máy chính quyền từ Trung ương tới địa phương; khoa học, công nghệ; thể chế kinh doanh; đặc biệt là kinh tế tư nhân với lần đầu tiên được khẳng định là “lực lượng quan trọng nhất”. Đây là những nền tảng quan trọng ban đầu cho một kỷ nguyên phát triển mới.
Những dấu mốc đó phản ánh sự thay đổi trong triết lý và tư duy cải cách của Việt Nam như thế nào, thưa ông?
Sự thay đổi tư duy qua chặng đường 80 năm phát triển của đất nước là rất lớn.
Thứ nhất, chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã học hỏi kinh nghiệm của Liên Xô và Trung Quốc, nhưng cũng nhận ra thực trạng của mình, một nước trình độ phát triển thấp, vừa ra khỏi chiến tranh, nghèo đói và bị cấm vận, không đủ nguồn lực và trình độ để vận hành một nền kinh tế kế hoạch tập trung cao độ như Liên Xô.
Thứ hai, tư duy chuyển từ Nhà nước quyết định mọi hoạt động kinh tế sang phân cấp, phân quyền và trao quyền tự chủ hơn cho doanh nghiệp, thị trường. Cơ chế quản lý tập trung, bao cấp từng bước bị xóa bỏ để nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực.
Thứ ba, chuyển mục tiêu từ ưu tiên cho công nghiệp nặng sang phát triển đa dạng các ngành kinh tế khác. Mô hình công nghiệp nặng của Liên Xô đòi hỏi nguồn lực khổng lồ và trình độ tương ứng mà chúng ta lúc đó không có, trong khi đó, áp lực tạo ra thu nhập, việc làm rất lớn. Điều này cho thấy sự linh hoạt và thực tế hơn trong việc xác định mô hình, cơ cấu kinh tế của nước ta khi đó.
Thứ tư, chuyển từ tư duy bình quân chủ nghĩa sang mục tiêu công bằng đi đôi với hiệu quả. “Công bằng” ở đây được hiểu theo nghĩa mới, đó là công bằng trong việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất, trao cho mọi người quyền và cơ hội, chứ không phải là hưởng thụ cào bằng.
Thưa ông, Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Ông có thể phân tích rõ hơn về mô hình tăng trưởng hiện nay của Việt Nam và điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là gì, thưa ông?
Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể xác định theo các phương diện khác nhau.
Một là, mô hình tăng trưởng dựa trên xuất khẩu hay dựa trên việc tăng các nhân tố đầu vào sản xuất, nhất là vốn, lao động. Tuy nhiên, khác với nhiều nước, mô hình dựa trên xuất khẩu của Việt Nam lại phụ thuộc phần lớn vào khu vực FDI, từ nhập khẩu tư liệu sản xuất, trung gian đầu vào đến xuất khẩu thành phẩm.
Hai là, mô hình tăng trưởng dựa vào việc tăng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên... đã gần như khai thác hết tiềm năng (tận khai). Theo mô hình này, chúng ta cứ tăng vốn, tăng đầu tư, nhân công giá rẻ là tạo ra tăng trưởng, thu nhập, việc làm. Tuy nhiên, hệ lụy là lãng phí các nguồn lực, tích tụ nợ công và ô nhiễm môi trường, nhất là tăng nguy cơ sa vào bẫy thu nhập trung bình.
Vì vậy, bắt buộc phải chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào, tức là cùng một đồng vốn, cùng một giờ lao động phải tạo ra nhiều giá trị hơn. Song song với đó, một số lĩnh vực có thể đi tắt, chuyển nhanh sang mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Việc ban hành “bộ tứ nghị quyết” vừa qua chính là để hướng tới mô hình này.
Tuy nhiên, quá trình đạt tăng trưởng hai chữ số trong thời gian dài có thể kéo theo rủi ro bất ổn vĩ mô như lạm phát cao, nợ công tăng. Nếu chúng ta chủ quan duy ý chí, cải cách quá sốc, không có lộ trình phù hợp, chính sách được thiết kế thiếu hiệu quả, thiếu hiệu lực, thiếu sự phối kết hợp hữu hiệu có thể gây bất ổn, thậm chí khủng hoảng.
Bài học về thất bại trong việc cải cách theo liệu pháp sốc, thiếu lộ trình hữu hiệu trong lịch sử không hiếm. Bài học tự do hóa tài chính quá nhanh, thiếu sự điều tiết tốt thị trường bất động sản và ít tính đến các nhân tố khác đã dẫn đến Khủng hoảng tiền tệ châu Á, bùng phát ở Thái Lan năm 1997, cần suy ngẫm sâu sắc.
Điểm nghẽn lớn nhất của chúng ta hiện nay chính là thể chế. Do Việt Nam hiện nay và trong tương lai thực hiện các cam kết quốc tế, nhất là thực hiện các FTA cũng như các quy định thực hiện “bộ tứ nghị quyết”, nên việc điều chỉnh mô hình tăng trưởng sắp tới chủ yếu dựa trên điều chỉnh các động lực chính hiện hữu. Thực tế này đòi hỏi Việt Nam phải có những cải cách mạnh mẽ để giải quyết hữu hiệu từng động lực sau đây.
Đối với FDI, hiện Việt Nam có vị thế tương đối lớn nhờ nhiều yếu tố, nhất là vị thế địa kinh tế, địa chính trị và sức mạnh nội tại tăng; do vậy, cần nỗ lực kiến tạo và thực hiện cải cách chính sách FDI 2.0 (thế hệ mới). Theo đó, cần thu hút FDI có chọn lọc, ưu tiên các dự án FDI có chất lượng cao, có tác động lan tỏa, nhất là công nghệ và tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn cho kinh tế trong nước.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, tăng hiệu quả thông qua đổi mới quản trị, nghĩa là cải cách mạnh mẽ cơ chế thưởng – phạt (cây gậy và củ cà rốt). Không nên mặc nhiên trao vai trò chủ đạo cho doanh nghiệp nhà nước, mà chỉ nên giữ vai trò này ở một số lĩnh vực then chốt, trong một vài giai đoạn. Quan trọng là tăng tính tự chủ cho lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước, giảm sự can thiệp không hợp lý, phi kinh tế, thậm chí là mang tính chính trị từ các cơ quan chủ quản và quản lý liên quan.
Đặc biệt, cần thay đổi cơ chế đầu tư cho khoa học, công nghệ, nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp nhà nước theo đúng nguyên tắc, thoát khỏi các quy định cứng nhắc của đầu tư phát triển, đầu tư công.
Đối với kinh tế tư nhân, cần hỗ trợ hiệu quả hơn cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo sự liên kết mạnh hơn giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp FDI, nhất là thông qua hệ thống ươm tạo công nghệ. Đối với các tập đoàn tư nhân lớn, cần thúc đẩy phát triển, vươn ra toàn cầu, nhưng đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn hiệu quả hơn các mối quan hệ có thể dẫn đến tham nhũng.
Đối với xuất khẩu, cần chuyển nhanh hơn từ lượng sang chất, tăng giá trị gia tăng cho hàng hóa và nâng cấp vị thế (tiến tới vị thế đầu chuỗi) của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng, giá trị toàn cầu.
Đối với đầu tư công, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy giải ngân, đồng thời tạo động lực và bảo vệ những cán bộ dám nghĩ, dám làm.
Vậy, để thực hiện được khát vọng phát triển đến năm 2045, theo ông, thách thức lớn nhất là gì và đâu là cú hích cần thiết?
Thách thức lớn nhất chính là con người (nhân lực), cụ thể là việc lựa chọn và trọng dụng được người tài, từ cán bộ công chức đến các chuyên gia trong và ngoài nước. Có nguồn nhân lực tốt thì mới có thể thiết kế và thực thi chính sách tốt, ứng phó với những biến động khôn lường của thế giới. Cái khó là phải xây dựng được một môi trường làm việc thực sự có cảm hứng, kích thích sáng tạo, giảm bớt những tiêu chuẩn quá ngặt nghèo về mặt hành chính, chính trị trong một số lĩnh vực, vị trí công việc.
Cú hích cần thiết lúc này là phải thực sự coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, dù tư tưởng này đã được đặt ra cách đây hơn 500 năm. Chúng ta phải có một cuộc cải cách, đổi mới mạnh bạo trong thể chế về tuyển chọn, đãi ngộ và giữ chân người tài. Kinh nghiệm của Trung Quốc về nhấn mạnh chủ nghĩa thực dụng (coi chuyên môn, hiệu quả kinh tế quan trọng hơn tiêu chuẩn hành chính, chính trị) từ năm 2008 là rất đáng suy ngẫm.
Gần đây, chúng ta đã có chủ trương thu hút người tài. Tuy nhiên, để thu hút được người tài, các giá trị môi trường sống, môi trường khoa học và các giá trị con người phù hợp để họ sống, làm việc, đóng góp, cống hiến tận tâm phải bảo đảm hài hòa, bền vững, thay vì chỉ chủ yếu nhấn mạnh bảo đảm thu nhập tương đối cao cho họ.
Một cú hích nữa là phải tận dụng hiệu quả nguồn lực dôi dư từ quá trình cải cách hành chính, sắp xếp lại bộ máy hiện nay. Hàng triệu mét vuông nhà đất công, trụ sở, trường học đang để lãng phí sau sáp nhập địa phương, bộ, ngành... Nên đẩy nhanh việc kiểm kê và chuyển giao các tài sản này để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, có mặt bằng sản xuất kinh doanh, nhất là tạo các cơ sở ươm tạo công nghệ.
Đồng thời, cần có chính sách để tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao dôi dư từ quá trình đại cải cách hành chính này. Cần lưu ý là nỗ lực hết sức, nhất là đánh giá đội ngũ cán bộ công chức, viên chức sau sáp nhập về chất lượng chuyên môn, sự hài lòng, sự bảo đảm phúc lợi xã hội để có kế hoạch điều chỉnh cải cách phù hợp, giúp họ tận lực, tận tâm làm việc với hiệu quả cao.
Khi có chính sách tốt, có người tài thực thi, chúng ta sẽ quản trị quốc gia và quản trị doanh nghiệp tốt. Quản trị tốt sẽ giúp thu hút hiệu quả các nguồn lực toàn cầu – từ vốn, công nghệ đến nhân tài – để đưa đất nước phát triển, phồn thịnh trong thời đại mới.
Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 35+36-2025 phát hành ngày 01/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-33.html
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: