VnEconomy - Nhịp sống Kinh tế Việt Nam và Thế giới

VnEconomy - Nhịp sống Kinh tế Việt Nam và Thế giới

icon-scroll

Sau năm 1954, ngay khi những cánh quân Giải phóng tiến vào tiếp quản Thủ đô, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế miền Bắc, lo cho đời sống nhân dân.

Hồ Chủ tịch đã đích thân lựa chọn xây dựng 13 nhà máy đầu tiên. Những nhà máy, xí nghiệp này chịu trách nhiệm sản xuất từ săm lốp xe đạp, bánh xà phòng, kem đánh răng, bát đĩa, vải, giấy cho đến bao diêm Thống Nhất.

Đây có thể coi là “hạt giống” đầu tiên của nền công nghiệp non trẻ Hà Nội và miền Bắc lúc bấy giờ.

Năm 1958, Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông được khởi công tại Hạ Đình, Thanh Xuân, và chính thức khánh thành năm 1963 – trở thành nhà máy đầu tiên ở Việt Nam và Đông Dương sản xuất bóng đèn và phích nước. Sáng 28/4/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm, trò chuyện với cán bộ công nhân viên nhà máy, để lại những lời căn dặn quý báu, trở thành di sản tinh thần cho nhiều thế hệ Rạng Đông.

Nhưng Rạng Đông cũng như nhiều nhà máy, xí nghiệp Hà Nội ra đời trong bối cảnh chiến tranh ác liệt. Từ năm 1965-1975, Hà Nội phải hứng chịu chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đỉnh cao là trận “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972. Công nghiệp Thủ đô chuyển từ thời bình sang thời chiến, công nhân vừa sản xuất vừa chiến đấu – “tay búa, tay súng”. Nhiều nhà máy như Xà phòng, Thuốc lá, Rạng Đông trở thành trận địa phòng không, tạo thành lưới lửa bủa vây máy bay Mỹ.

Hàng ngàn tấn máy móc được sơ tán về vùng núi để duy trì sản xuất, phục vụ cả đời sống và quốc phòng. Những xí nghiệp trụ lại Thủ đô vẫn ngày đêm bám máy, nhiều công nhân đã hy sinh ngay tại vị trí làm việc. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, công nghiệp Hà Nội vẫn duy trì và phát triển, bổ sung thêm nhiều nhà máy mới như: Nhựa Hà Nội, Sơn Hà Nội, Kim khí Thăng Long, Đúc Mai Lâm, Điện khí Thống Nhất, Cơ khí Giải Phóng, Cơ khí Nam Hồng...

Những sản phẩm thiết yếu như: nước chấm vi sinh, mì sợi, dép nhựa, giấy viết, cao su công nghiệp, đèn bão, ấm nhôm, nan hoa xe đạp, máy hàn điện, máy xát gạo, máy đập lúa... đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sau chiến tranh, các doanh nghiệp Nhà nước tại Hà Nội phải căng mình khắc phục hậu quả trong bối cảnh cơ chế quản lý tập trung, bao cấp vừa chật hẹp vừa lạc hậu. Ở phạm vi rộng hơn, nền kinh tế Việt Nam khi đó cũng chịu tác động nặng nề khi bị bao vây, cấm vận khiến các cơ sở công nghiệp vốn nhỏ bé, èo uột càng thêm manh mún, chắp vá. Công nghiệp Hà Nội chịu tác động mạnh nhất vì là nơi tập trung đông cán bộ, công nhân, viên chức, tất cả đều sống dựa vào tem phiếu và chế độ phân phối.

Tới năm 1981, công nghiệp Hà Nội dần khởi sắc, chặn đứng sự suy giảm sản xuất. Giai đoạn 1981-1983 tăng trưởng bình quân 10,5%, giai đoạn 1983-1985 đạt 12,7%. Nhiều điển hình tiên tiến xuất hiện: Nhà máy Chế tạo Công cụ số 1, Dụng cụ số 1, Cao su Sao Vàng, Rạng Đông, Điện cơ Thống Nhất, Dệt Minh Khai, Giày Hà Nội… Một số sản phẩm cơ khí còn xuất khẩu, như xe đạp Vi Ha, quạt điện, bếp dầu.

Sau hơn một thập kỷ dò dẫm tìm đường, đến năm 1987, công cuộc Đổi mới của cả đất nước bắt đầu được kích hoạt. Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, cuối năm đó Hà Nội có 5 dự án FDI đầu tiên – đặt nền móng cho những bước tiến lớn hơn. Năm 1989, Nhà nước xóa bỏ bao cấp, dừng bán gạo theo sổ, chấm dứt tem phiếu, đóng cửa các xí nghiệp thua lỗ. Nguồn lực xã hội được giải phóng, các doanh nghiệp tư nhân ra đời, vốn đầu tư nước ngoài đổ vào mạnh mẽ.

Từ năm 1989 đến năm 2004, “làn gió Đổi mới” thực sự thổi qua Hà Nội. Nếu nước chấm vi sinh là biểu tượng thời bao cấp thì bia Halida trở thành biểu tượng thời mở cửa. Xí nghiệp điện tử Chùa Bộc được thay bằng tổ hợp công nghiệp HaNEl. Công nghiệp Hà Nội mở rộng ra bốn hướng với các khu công nghiệp Sài Đồng A, Sài Đồng B, Bắc Thăng Long, Mễ Trì, Thượng Đình, Thanh Trì...

Những thương hiệu tiêu biểu như May 10, Cao su Sao Vàng, Rạng Đông, HaNEl, Khóa Việt Tiệp, Kim khí Thăng Long, Điện cơ Thống Nhất, Bia Halida, Cơ khí Mai Động, May Thăng Long, Giày vải Thượng Đình... đã phát triển mạnh mẽ, trở thành động lực cho Thủ đô.

Một dấu mốc có tính bước ngoặt là năm 2008, Quốc hội ra nghị quyết mở rộng địa giới hành chính, sáp nhập toàn tỉnh Hà Tây vào Hà Nội. Đây là quyết sách chiến lược, tạo điều kiện để Thủ đô mở rộng không gian phát triển, khẳng định vị thế trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước và vươn tầm quốc tế.

Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 70 cụm công nghiệp đang hoạt động với tổng diện tích theo quy hoạch là 1.686ha, thu hút được khoảng 3.864 hộ, doanh nghiệp vào đầu tư sản xuất kinh doanh với gần 80.000 lao động, nộp ngân sách bình quân khoảng 1.100 tỷ đồng/năm.

Trong năm 2024 thành phố Hà Nội đã công nhận 289 sản phẩm công nghiệp chủ lực, vượt xa mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2021-2025. Các sản phẩm này không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn thay thế hàng nhập khẩu và xuất khẩu tới các thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn cao, điều này đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế bền vững của Thủ đô.

Từ nền tảng của những doanh nghiệp quốc doanh một thời, công nghiệp Hà Nội hôm nay đã mở rộng không gian, đa dạng mô hình, trở thành điểm đến của dòng vốn quốc tế và trung tâm của đổi mới sáng tạo.

Từ năm 1989 đến nay, thành phố Hà Nội đã thu hút được 7.495 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 55,73 tỷ USD. Cùng thời gian trên, số vốn FDI đã thực hiện giải ngân đạt khoảng 29,7 tỷ USD, bằng 53,2% vốn đầu tư đăng ký.

Đây là nguồn lực vô cùng quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đột phá phát triển đồng bộ, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng đô thị của Thủ đô. Đã có 117 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại thành phố Hà Nội.

Sự xuất hiện của khối doanh nghiệp FDI cũng tạo sức ép cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong từng lĩnh vực, làm động lực cho doanh nghiệp trong nước cải tiến công nghệ, thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; tác động mạnh tới sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành của các lĩnh vực.

Thành phố Hà Nội đặt mục tiêu phấn đấu thu hút 30 - 40 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài; vốn giải ngân đạt 20 - 30 tỷ USD trong giai đoạn 2021 - 2025. Trên cơ sở đó, Thành phố định hướng thu hút FDI theo chiều sâu gắn với mục tiêu phát triển bền vững; ưu tiên những dự án chất lượng, sản phẩm có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao.

Cùng với đó, Hà Nội sẽ thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tăng cường liên kết khu vực đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước giữa bối cảnh mới của nền kinh tế. 

Triển khai thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng kinh tế, gắn với tạo đột phá, tạo động lực dẫn dắt tạo nền tảng phát triển lâu dài cho Hà Nội như nền tảng số, cải cách thể chế, tiếp tục đơn giản thủ tục hành chính...

Đặc biệt, Thành phố Hà Nội sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính về đăng ký kinh doanh, đăng ký đầu tư, thuế, bảo hiểm, đất đai; đồng thời công bố công khai, minh bạch toàn bộ các quy hoạch ngành, quy hoạch phân khu, kế hoạch sử dụng đất theo nhiều hình thức, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thông tin đầu tư. Thành phố cũng tăng cường vai trò của các cơ quan xúc tiến đầu tư trong kết nối với tổ chức ngoại giao và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Nửa thế kỷ qua đi, Hà Nội cũng như nhiều địa phương khác đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong công nghiệp và thương mại. Từ những doanh nghiệp tiền thân như Cao – Xà – Lá, Giày Thượng Đình, Bóng đèn phích nước Rạng Đông… cho đến các tập đoàn, khu công nghiệp hiện đại hôm nay, tất cả đều đang góp phần tạo nên một diện mạo kinh tế – xã hội mới, vừa mang dấu ấn truyền thống vừa hướng tới thời kỳ xanh hóa, số hóa và hội nhập toàn cầu.

Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 35+36-2025 phát hành ngày 01/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-3536-2025.html

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: