VnEconomy - Nhịp sống Kinh tế Việt Nam và Thế giới

VnEconomy - Nhịp sống Kinh tế Việt Nam và Thế giới

icon-scroll

Mỗi chặng đường, mỗi địa danh trên dải Trường Sơn đều thầm nhắc chúng ta rằng tự do không phải là một món quà được trao tặng, mà là kết quả của tình yêu nước bất diệt, cùng những đấu tranh gian khổ tới tận cùng...

Giữa những ngày đất nước rộn ràng chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc Khánh 2/9, tôi muốn một lần đặt chân tới Trường Sơn, đi trên con đường huyền thoại, tới những vùng đất can trường, đã từng bất khuất vượt qua lửa đạn, vượt qua sự bạo tàn của bom đạn kẻ thù, để góp phần vào chiến thắng và để hồi sinh mạnh mẽ như hôm nay.

Đó cũng là cách khiến tôi có thể được chạm vào quá khứ, để hiểu thêm về cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc mình; để hiểu hơn về con đường huyền thoại mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, con đường từng là mạch máu của cả dân tộc trong cuộc chiến tranh Vệ quốc đầy gian lao mà vinh quang vì độc lập, tự do và thống nhất đất nước.

Đường mòn Hồ Chí Minh bắt đầu từ “cột mốc số 0” tại thị trấn Lát, phía Tây Nghệ An, kéo dài qua đèo Mụ Giạ, len lỏi dọc Tây Trường Sơn, sang đất Lào, xuống phía Đông Campuchia, rồi trở lại Việt Nam. Không máy móc hiện đại, không vật tư dồi dào, nhưng con đường vẫn được mở rộng không ngừng, trở thành mạng lưới giao thông kỳ diệu với đường bộ, đường thủy, đường ống xăng dầu và đường dây thông tin liên lạc.

Trong 16 năm, từ 1959 đến 1975, đường Hồ Chí Minh từ Nghệ An đã vươn dài đến Lộc Ninh – Bình Phước, với gần 17.000 km đường bộ, hơn 3.000 km đường giao liên, gần 1.400 km đường ống xăng dầu và những tuyến thủy trên sông Xê Băng Hiêng, Xê Công, Mê Công…

Để có được hàng vạn km đường mòn kể trên, những người công binh mở đường, những thanh niên xung phong phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt và nguy hiểm, dưới mưa bom bão đạn của hàng ngàn trận không kích của không lực đế quốc Mỹ.

Chúng ta làm xong, giặc phá. Chúng ta làm lại, giặc lại phá. Chúng ta lại làm tiếp. Cuộc chiến giằng co, thử sức bền ý chí của đôi bên kéo dài liên miên. Nên, để làm được 1km đường, để người – xe có thể qua được, phải tốn công, sức gấp ngàn vạn lần những km đường sá bình thường.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, bộ đội Trường Sơn – Đoàn 559 đã vận chuyển hơn 1,5 triệu tấn hàng hóa, 5,5 triệu tấn xăng dầu, đảm bảo cho hơn 1,1 triệu lượt cán bộ, chiến sĩ vào Nam, đưa hơn 650.000 người từ chiến trường về hậu phương, trong đó có 310.000 thương, bệnh binh.

Với kẻ thù, đường mòn Hồ Chí Minh thực sự là cơn ác mộng. Hơn 4 triệu tấn bom đạn, chất độc hóa học trút xuống, nhiều chiến dịch để phong tỏa, nhưng con đường vẫn kiên cường đứng vững, không một ngày nào bị chặt đứt và mạnh mẽ như gọng kìm siết chặt sào huyệt đối phương.

Ngày nay, trong những bảo tàng chứng tích chiến tranh, hoặc vườn nhà người dân ở miền Trung, chúng ta vẫn thấy những tàn tích của hàng rào điện tử McNamara mà quân đội đế quốc Mỹ dựng nên hòng ngăn những bước chân của đoàn quân giải phóng băng qua dãy Trường Sơn. Hàng rào điện tử này được xây dựng từ tháng 6/1966 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lúc bấy giờ là Robert McNamara, tiêu tốn 2 tỷ USD.

Để đối phó với hàng rào điện tử McNamara, bộ đội Việt Nam đã xác định 3 không: "Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng" để nâng cao tinh thần đảm bảo bí mật, tránh việc tạo tiếng ồn, gây sự chú ý trong lúc hành quân.

Bên cạnh đó, việc né tránh các khu vực "dính" hàng rào điện tử McNamara là cực kỳ đơn giản do tuyến đường mòn Trường Sơn được xây dựng theo kiểu đan xen nhau cực kỳ chằng chịt, mỗi khi có một khu vực được coi là nghi vấn, ngay lập tức đoàn xe vận tải sẽ được chuyển hướng, di chuyển theo lộ trình khác an toàn hơn.

Có thể nói, đường Trường Sơn – đường mòn Hồ Chí Minh là một trong những kỳ tích vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Từ những lối mòn nhỏ bé, con đường lớn lên thành hệ thống giao thông gần 20.000 km, với đường trục dọc, trục ngang, đường sông, đường ống. Chiều sâu huyền thoại của con đường được đắp xây bằng trí tuệ, mồ hôi và máu của hàng vạn con người. Để giữ cho con đường liền mạch trong gần 60.000 ngày đêm, hơn 20.000 bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân giao thông đã hy sinh, hơn 30.000 người bị thương. Đến tận hôm nay, di chứng chiến tranh vẫn còn hiện hữu. Chất độc da cam mà kẻ địch gieo rắc xuống Trường Sơn và nhiều vùng đất khác vẫn âm thầm phát tác, để lại những thế hệ mang trong mình nỗi đau thể xác lẫn tinh thần.

Từ đường mòn Hồ Chí Minh, chúng tôi vào thăm Nghĩa trang Liệt sĩ Việt – Lào nằm trên địa phận huyện Anh Sơn (cũ) của tỉnh Nghệ An. Tại đây, cụ ngoại của các con tôi đang an nghỉ cùng hàng vạn đồng đội của ông. Trong số gần 11.000 liệt sỹ đang nằm lại đây, chỉ có khoảng 3.300 phần mộ có danh tính liệt sỹ, 570 ngôi mộ có tên nhưng chưa rõ quê. Những người còn lại, chưa biết tới bao giờ, họ có thể được ghi tên, tuổi, quê quán, ngày hy sinh trên bia mộ của mình.

Trong nghĩa trang Liệt sĩ này, có ngôi mộ rất đặc biệt khi được gắn tên của hai liệt sỹ. Liệt sỹ Lê Văn Tư (quê huyện Anh Sơn, Nghệ An) và liệt sỹ Trần Đình Hiền (quê Nghi Lộc, Nghệ An) sinh cùng năm, nhập ngũ cùng thời điểm, hy sinh cùng một ngày và được an táng cùng phần mộ. Khi được tìm thấy và quy tập về đây, do không thể xác định được hài cốt của từng người nên ngành chức năng quyết định an táng hai liệt sỹ chung một mộ phần.

Dưới những hàng bia đá lặng lẽ, một cô gái trẻ tới viếng người thân đã rưng rưng nước mắt khi thắp hương cho những ngôi mộ chưa xác định được danh tính. “Các ông hy sinh trẻ quá, nhiều quá…”. Khoảnh khắc ấy, tôi hiểu lịch sử không còn là bài học xa vời, mà hiện diện sống động, là hơi thở, là máu thịt của những con người đã ngã xuống để thế hệ sau được sống trong hòa bình.

Hành trình về Trường Sơn sẽ là không trọn vẹn nếu thiếu những điểm dừng chân tại các địa danh tuyến lửa thuộc tỉnh Quảng Trị. Từ Thành Cổ, đôi bờ sông Thạch Hãn đến những cung đường Trường Sơn chằng chịt bom đạn. Mỗi địa danh, mỗi nẻo đường đều in dấu những tháng ngày bi tráng. Quảng Trị trong ký ức chiến tranh là mảnh đất gánh chịu sự tàn khốc bậc nhất, nhưng cũng chính từ nơi đây đã tỏa sáng ý chí kiên cường và khát vọng thống nhất của cả dân tộc.

Khi đi sâu vào lòng địa đạo Vịnh Mốc, Quảng Trị, tôi đã thực sự choáng ngợp bởi sức sống, sự kỳ vĩ mà người dân vùng đất này đã tạo nên trong lòng đất. Từ năm 1965 đến 1973, 23 xã, thị trấn Vĩnh Linh trằn lưng căng sức chống trả cuộc chiến tranh phá hoại mang tính hủy diệt của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Trên mảnh đất này, gần 3.000 ngày đêm hứng chịu không thiếu một loại bom đạn nào của kho vũ khí tội ác.

Nếu làm một phép tính đơn thuần, ta thực sự sởn gai ốc, khi biết tại vùng đất này, mỗi em bé lọt lòng đến ông bà già của Vĩnh Linh từng phải hứng chịu 7 tấn bom đạn các loại của kẻ thù. Mặt đất trở thành bình địa. Nhà văn Nguyễn Tuân đi qua đây phải thốt lên “không còn cành cây cho chim đậu”.

Có thể chim chóc trên mặt đất không còn đất, còn cây để sống, nhưng người Vĩnh Linh, người Quảng Trị vẫn quyết sống và chiến đấu tại đây để làm tiền đồn cho miền Bắc và hậu phương cho miền Nam. Địa đạo Vịnh Mốc tại Vĩnh Linh là địa danh, là chứng tích là “kỳ quan” của người Việt mà bất cứ ai cũng nên đến một lần trong đời.

Được khởi công từ đầu năm 1965 và hoàn thành vào ngày 18 tháng 2 năm 1966, địa đạo nằm trong lòng đồi đất đỏ bazan sát biển, là minh chứng cho ý chí “một tấc không đi, một ly không rời” của quân và dân Vĩnh Linh.

Cô hướng dẫn viên trẻ chỉ cho chúng tôi những lỗ thông hơi, những căn hầm nhỏ xíu, nhà hộ sinh, phòng họp, và những “căn hộ” dưới lòng đất sâu 15-20m, nơi cả một cộng đồng đã sống, chiến đấu và sinh tồn giữa lằn ranh sinh tử. Trong những năm 1965-1972, Vịnh Mốc bị tàn phá bởi bom đạn Mỹ. Để tồn tại, họ chuyển cả cuộc sống xuống lòng đất, xây dựng hệ thống địa đạo 3 tầng: tầng 1 cho trụ sở Đảng ủy, tầng 2 cho dân làng sinh sống, tầng 3 lưu trữ lương thực, vũ khí.

Mọi chi tiết đều được tính toán khoa học, từ các hầm tránh để đi lại, đến đường hầm trượt giúp dân làng thoát nhanh xuống tầng sâu, tránh bom khoan. Công trình này được đào bằng tay, với những dụng cụ thô sơ, trong gần 20 tháng. Không máy móc, người dân dùng chai nước làm thước đo, dây buộc đá làm dây dọi. Khoảng 6.000 m2 đất đá được đưa ra khỏi giếng sâu, phần lớn đổ xuống biển để tránh lộ dấu vết.

Cả vùng Vĩnh Linh, từ 1965-1968, đào được 114 địa đạo, nhưng bom đạn cũng đã khiến 28 căn hầm sập, chôn vùi hơn 500 người dân vô tội. Địa đạo Vịnh Mốc, trong hơn 2.000 ngày đêm, không chỉ là nơi trú ẩn mà còn là pháo đài sống. Ban ngày, họ sống dưới lòng đất. Dưới lòng đất sâu hàng chục mét, trong những “căn nhà” nhỏ xíu, chỉ khoảng 1m2 đã có 17 đứa trẻ chào đời và lớn lên giữa bom đạn trút xuống ngày đêm.

Tôi biết những đứa trẻ thành phố hôm nay cùng tôi tới địa đạo này chỉ cảm nhận được một phần rất bé nhỏ sự dữ dội của chiến tranh. Nhưng, nhìn vào ánh mắt chúng, tôi hiểu đã có điều gì đó kịp gieo vào lòng – một niềm thương đất nước và sự tự hào lớn lao. Địa đạo Vịnh Mốc thực sự giúp bọn trẻ chạm vào lịch sử, không qua sách vở mà bằng chính xúc cảm của mình.

Những ngày băng qua Trường Sơn, tôi cứ tâm niệm, cứ mong muốn, sao cho mỗi đứa trẻ lớn lên trong hòa bình sẽ một lần được đi dọc theo con đường này, 1 ngày, 2 ngày hoặc có thể nhiều hơn. Bởi Trường Sơn không chỉ là chuyến đi qua núi rừng, ở đây còn có rất nhiều bài học sống động. Mỗi tấc đất, mỗi dòng suối, mỗi con dốc ở đây đều như một trang sử sống, khắc ghi sự hy sinh, mất mát và cả sức mạnh kiên cường của bao thế hệ. Con đường Trường Sơn – đường mòn Hồ Chí Minh không chỉ là trục giao thông nối liền đất nước, mà còn là sợi dây hữu hình kết nối quá khứ và hiện tại.

Từ những bài học ở Trường Sơn, chúng ta và cả thế hệ đi sau sẽ hiểu rằng không có con đường nào trải sẵn, chỉ có ý chí, sự dấn thân và khát vọng đi tới mới mở ra hòa bình và một tương lai bền vững.

Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 35+36-2025 phát hành ngày 01/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-3536-2025.html

Askonomy AI

...

icon

Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?

Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán), có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu). Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: