Đề xuất mới về đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Tùng Dương
09/08/2025, 07:00
Cách liệt kê tên loại hình, lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, chế biến thuộc đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp chưa đảm bảo đầy đủ, dẫn đến vướng mắc trong quá trình triển khai. Danh mục 14 nhóm ngành, nghề lĩnh vực sản xuất, chế biến như hiện hành chưa bao quát toàn bộ các hoạt động xả thải đang diễn ra trên thực tế…
Ảnh minh họa
Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 53/2020/NĐ-CP ngày 05/5/2020 của Chính phủ quy định phí bảo vệ môi trường đối với nước thải nhằm bảo đảm rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với thực tế, bảo đảm tính hợp lý, tính khả thi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành và áp dụng; khắc phục những hạn chế hiện nay.
Việc ban hành nghị định cũng nhằm đảm bảo tiêu chí “người gây ô nhiễm phải trả tiền” trên cơ sở xem xét tính tổng thể nghĩa vụ thuế, phí có liên quan đến bảo vệ môi trường của cùng một đối tượng nhằm đảm bảo việc thu phí bảo vệ môi trường không chồng chéo và mâu thuẫn với thuế bảo vệ môi trường, tránh tình trạng “lách luật” khi áp dụng quy định về phí và thuế. Bên cạnh đó tạo động lực cho doanh nghiệp cải tiến công nghệ sản xuất, đầu tư xử lý nước thải nhằm giảm thiểu phát thải chất ô nhiễm ra môi trường, góp phần điều chỉnh hành vi của các chủ thể xả nước thải.
DANH MỤC NHÓM NGÀNH, NGHỀ SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN HIỆN CHƯA BAO QUÁT HOẠT ĐỘNG XẢ THẢI
Theo Bộ Tài chính, tại Điều 2 Nghị định 53/2020/NĐ-CP quy định: "Đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường theo quy định tại Nghị định này là nước thải công nghiệp thải vào nguồn tiếp nhận nước thải theo quy định pháp luật và nước thải sinh hoạt, trừ trường hợp miễn thu phí theo quy định tại Điều 5 Nghị định này".
Trong đó, quy định cụ thể nước thải của 14 nhóm ngành, nghề, lĩnh vực, hoạt động sản xuất, chế biến thuộc đối tượng chịu phí đối với nước thải công nghiệp; và nước thải từ hộ gia đình, cá nhân; cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; cơ sở: rửa ô tô, rửa xe máy, sửa chữa ô tô, sửa chữa xe máy, khám chữa bệnh, nhà hàng, khách sạn, đào tạo, nghiên cứu và cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác thuộc đối tượng chịu phí với nước thải sinh hoạt.
Quy định này được dựa trên cơ sở Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp số 40:2011/BTNMT quy định: "Nước thải công nghiệp là nước thải phát sinh từ quá trình công nghệ của cơ sở sản xuất, dịch vụ công nghiệp, từ nhà máy xử lý nước thải tập trung có đấu nối nước thải của cơ sở công nghiệp" và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt số 14:2008/BTNMT quy định: "Nước thải sinh hoạt là nước thải ra từ các hoạt động sinh hoạt của con người như ăn uống, tắm giặt, vệ sinh cá nhân".
Các quy định này hiện nay đã thay đổi (bị thay thế) và được quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp số 40:2025/BTNMT (ban hành ngày 28/02/2025) quy định: "Nước thải công nghiệp là nước thải phát sinh từ: hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp".
Tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt và nước thải đô thị, khu dân cư tập trung số 14:2025/BTNMT ngày 28/02/2025 quy định: "Nước thải sinh hoạt là nước thải phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt của con người (bao gồm: ăn uống, tắm, giặt, vệ sinh cá nhân) hoặc phát sinh từ các loại hình kinh doanh, dịch vụ (quy định tại Phụ lục 1 Quy chuẩn này) được quản lý như nước thải sinh hoạt".
Như vậy, so với trước đây, quy định của pháp luật bảo vệ môi trường hiện hành về nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt đã có thay đổi về chủ thể xả thải, loại hình nước thải (bổ sung loại nước thải từ dự án đầu tư, hoạt động kinh doanh, dịch vụ được quản lý như nước thải sinh hoạt, tuy có nằm trong nhóm nước thải công nghiệp).
Dự thảo tờ trình cho biết theo đề án của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cách liệt kê tên loại hình, lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, chế biến thuộc đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp chưa đảm bảo đầy đủ các ngành, nghề lĩnh vực sản xuất, chế biến, dẫn đến vướng mắc trong quá trình triển khai.
Cụ thể, một số cơ sở có hoạt động sản xuất, chế biến nhưng không được quy định cụ thể nên cho rằng không thuộc đối tượng chịu phí dẫn đến không kê khai, nộp phí theo quy định, gây khó khăn cho cơ quan quản lý.
Ngoài ra, danh mục 14 nhóm ngành, nghề lĩnh vực sản xuất, chế biến như quy định hiện hành chưa bao quát toàn bộ các hoạt động xả thải đang diễn ra trên thực tế. Theo phân ngành kinh tế Việt Nam, hiện có khoảng 1.570 ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà các doanh nghiệp được phép đăng ký hoạt động.
Nhiều cơ sở là cá nhân, hộ gia đình có các hoạt động sản xuất, chế biến nhưng quy mô rất nhỏ, mang tính mùa vụ hoặc gắn với một số ưu thế về hình thái sinh sống tự nhiên như chăn nuôi gia súc, gia cầm ở nông thôn, miền núi; giết mổ gia súc, gia cầm ở các khu chợ, khu dân sinh, nuôi trồng thủy sản những khu vực đầm, ao, hồ, sông suối, ven biển; gia công, chế biến sản phẩm truyền thống như làm bún, nấu rượu...
Vì vậy, việc thu phí bảo vệ môi trường với nước thải công nghiệp trong những trường hợp này là chưa phù hợp và thiếu thực tế do quy mô, theo dõi, quản lý của Nhà nước và các vấn đề về an sinh xã hội. Trong khi đó, hầu hết các cơ sở này thường đặt tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, Nhà nước cần có chính sách để phát triển, nâng cao đời sống của người dân.
Ngoài ra, nhiều cơ sở sản xuất, chế biến thuộc đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường với nước thải công nghiệp, nhưng thực tế trong quá trình sản xuất không phát sinh nước thải công nghiệp (mà chỉ phát sinh nước thải sinh hoạt từ hoạt động ăn uống, sinh hoạt của công nhân, nhân viên văn phòng), như: May mặc (quần áo, giày dép...); các cơ sở tiểu thủ công nghiệp trong các làng nghề; nhà máy cấp nước sạch; gia công cơ khí (không có xi mạ); sản xuất văn phòng phẩm; dược phẩm; phối trộn phân bón; đồ gỗ; xay xát lúa gạo; cơ sở điện gió; điện mặt trời...
Theo cơ quan soạn thảo, điều này dẫn đến việc thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp của các cơ sở này là chưa phù hợp.
ĐỀ XUẤT ĐIỀU CHỈNH ĐỐI TƯỢNG CHỊU PHÍ, ĐẢM BẢO KHÔNG BỎ SÓT VÀ PHÙ HỢP THỰC TẾ
Để đảm bảo phù hợp quy định hiện hành của pháp luật bảo vệ môi trường về nước thải, đặc thù của ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (chủ thể xả thải) đồng thời đảm bảo không bỏ sót đối tượng, phù hợp với thực tế và hiệu quả thu phí, cơ quan soạn thảo đề xuất quy định về đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải tại Điều 2 dự thảo Nghị định.
Cụ thể, theo dự thảo tờ trình, đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường theo quy định tại Nghị định này là nước thải công nghiệp thải vào nguồn tiếp nhận nước thải theo quy định pháp luật và nước thải sinh hoạt, trừ trường hợp miễn thu phí theo quy định tại Điều 5 Nghị định này gồm các đối tượng chính.
Bỏ quy định liệt kê tên loại hình, lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, chế biến thuộc đối tượng chịu phí. Quy định đối tượng chịu phí theo hướng viện dẫn đến pháp luật chuyên ngành đảm bảo phù hợp quy định hiện hành của pháp luật bảo vệ môi trường về nước thải, đặc thù của ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đảm bảo không bỏ sót đối tượng, phù hợp với thực tế và hiệu quả thu phí.
Thứ nhất, nước thải công nghiệp là nước thải phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thứ hai, nước thải sinh hoạt là nước thải phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt của con người (bao gồm: ăn uống, tắm, giặt, vệ sinh cá nhân) hoặc phát sinh từ các loại hình kinh doanh, dịch vụ được quản lý như nước thải sinh hoạt theo quy định pháp luật.
Như vậy, so với quy định hiện hành, dự thảo bỏ quy định liệt kê tên loại hình, lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, chế biến thuộc đối tượng chịu phí.
Quy định đối tượng chịu phí theo hướng viện dẫn đến pháp luật chuyên ngành đảm bảo phù hợp quy định hiện hành của pháp luật bảo vệ môi trường về nước thải, đặc thù của ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (chủ thể xả thải) đồng thời đảm bảo không bỏ sót đối tượng, phù hợp với thực tế và hiệu quả thu phí.
Cũng theo dự thảo, sẽ có 9 trường hợp được miễn phí bảo vệ môi trường với nước thải, thay vì 7 trường hợp như hiện nay.
Việc quy định thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải nhằm nâng cao ý thức của tổ chức, cá nhân về bảo vệ môi trường; ràng buộc đối tượng xả thải nước thải đóng góp kinh phí phục vụ cho việc xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường; tạo nguồn thu ngân sách để hỗ trợ kinh phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường tại mỗi địa phương. Theo thống kê, số thu phí năm 2022 đạt 2.200 tỷ đồng; năm 2023 đạt 2.804 tỷ đồng; năm 2024 đạt 3.338 tỷ đồng).
Lồng ghép biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh
Tăng cường năng lực thể chế trong bảo vệ môi trường, nâng cao khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu, phục vụ định hướng phát triển xanh cho các đô thị loại II...
Nguồn lực cho các mục tiêu xanh
Phát triển thị trường carbon là một yêu cầu cấp bách. Đây cũng là cơ hội quan trọng để huy động nguồn lực tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi xanh...
Tảo biển có thể là chất liệu thời trang kiểu mới
Các bãi biển ở Mỹ Latinh đang tràn ngập một loài tảo biển xâm lấn có tên là sargassum, và biến đổi khí hậu chỉ khiến tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Một làn sóng các nhà sáng tạo trong ngành thời trang cho rằng họ có thể giải quyết vấn đề này…
Nhiều cộng đồng vùng biên Nghệ An được hưởng lợi từ chi trả giảm phát thải
Chính sách chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) là một công cụ tài chính bền vững mà lợi ích kinh tế được gắn kết trực tiếp với mục tiêu bảo vệ môi trường, bảo tồn rừng và phát triển sinh kế cho người dân vùng núi...
Ba loại dự án cấp thiết được tạm sử dụng rừng để thi công
Việc sửa đổi bổ sung quy định về tạm sử dụng rừng nhằm đảm bảo tiến độ xây dựng các dự được Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư, các dự án phục vụ quốc phòng an ninh, dự án khẩn cấp; dự án cấp thiết về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Đặc biệt đảm bảo tiến độ 2 dự án đường sắt quan trọng quốc gia (đường sắt tốc độ cao trục Bắc- Nam và tuyến đường sắt Lào Cai- Hà Nội- Hải Phòng)…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: