Sở Nội vụ Thành phố Hồ
Chí Minh vừa thông tin các quy định về việc tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến
300 giờ trong một năm.
Theo đó, các trường hợp
được tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm được quy định tại
các điểm a, điểm b, điểm c, điểm d khoản 3 Điều 107 Bộ luật Lao động năm 2019,
và Điều 61 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ
lao động.
Cụ thể, các trường hợp
sau: Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện
tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản.
Sản xuất, cung cấp điện,
viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước; Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi
lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, mà thị trường lao động không
cung ứng đầy đủ, kịp thời.
Trường hợp phải giải quyết
công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, thời điểm của
nguyên liệu, sản phẩm, hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách
quan không dự liệu trước, do hậu quả thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa,
thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất.
Ngoài ra là các trường hợp phải giải
quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn phát sinh từ các yếu tố khách quan
liên quan trực tiếp đến hoạt động công vụ trong các cơ quan, đơn vị nhà nước,
trừ các trường hợp quy định tại Điều 108, Bộ luật Lao động năm 2019 (làm thêm giờ trong trường hợp đặc biệt).
Theo Điều
108, người
sử
dụng
lao động
có quyền yêu cầu người
lao động
làm thêm giờ vào bất kỳ
ngày nào, mà không bị giới
hạn
về
số
giờ
làm thêm và người lao động không được
từ
chối
trong
hai trường hợp sau đây: (1) Thực hiện lệnh động viên, huy động
bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật.
(2) Thực hiện các công việc nhằm bảo vệ
tính mạng con người, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa, khắc
phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm và thảm họa, trừ trường hợp
có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người lao động theo quy định của
pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.
Trường hợp khác được làm
thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong năm nữa là cung ứng dịch vụ công; dịch vụ
khám bệnh, chữa bệnh; dịch vụ giáo dục, giáo dục nghề nghiệp; Công việc trực tiếp
sản xuất, kinh doanh tại các doanh nghiệp thực hiện thời giờ làm việc bình thường
không quá 44 giờ trong một tuần.
Trừ các trường hợp quy định
tại Điều 108 của Bộ luật Lao động, các trường hợp khác khi tổ chức làm thêm giờ,
người sử dụng lao động phải được sự đồng ý của người lao động tham gia làm thêm
về các nội dung bao gồm thời gian, địa điểm và công việc làm thêm.
Tổng số giờ làm thêm
không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong một ngày khi làm thêm vào ngày
làm việc bình thường.
Trường hợp áp dụng quy định
thời giờ làm việc bình thường theo tuần, thì tổng số giờ làm việc bình thường
và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong một ngày.
Trường hợp làm việc không
trọn thời gian, thì tổng số giờ làm
việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong một ngày. Tổng số giờ
làm thêm cũng không quá 12 giờ trong một ngày khi làm thêm vào ngày nghỉ lễ, Tết và
ngày nghỉ hàng tuần.
Thời gian nghỉ giữa giờ được giảm trừ khi tính tổng
số giờ làm thêm trong tháng, trong năm để xác định việc tuân thủ quy định tại
điểm b, điểm e Khoản 2, Điều 107 của Bộ luật Lao động.
Khi tổ chức làm thêm giờ,
người sử dụng lao động phải thông báo cho Sở Nội vụ theo quy định. Các nội dung
thông báo bao gồm nơi người sử dụng lao động tổ chức làm thêm giờ; nơi đặt trụ
sở chính, nếu trụ sở chính đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương khác với nơi người sử dụng lao động tổ chức làm thêm.
Việc thông báo phải được
thực hiện chậm nhất sau 15 ngày, kể từ ngày thực hiện làm thêm từ trên 200 giờ
đến 300 giờ trong một năm.