Giải pháp nâng cao giá trị cho 3 loại cây trồng chủ lực tại Bắc Trung Bộ
Nguyễn Thuấn
14/08/2025, 14:10
Mới đây tại Nghệ An, Diễn đàn kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản Bắc Trung Bộ đã quy tụ đông đảo chuyên gia, doanh nghiệp và nông dân, bàn giải pháp nâng tầm ba nhóm cây trồng chủ lực: dứa, chè và cây ăn quả có múi.
Vùng trồng cam tại xã Quang Đồng, Nghệ An. Ảnh: Ngọc Tú
Diễn đàn thu hút hàng trăm đại biểu từ các tỉnh Bắc Trung Bộ. Phát biểu tại diễn đàn, ông Nguyễn Văn Đệ – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An cho biết Nghệ An có diện tích tự nhiên hơn 1,64 triệu ha, dân số hơn 3,47 triệu người, trong đó 83% sống ở nông thôn. Tỷ trọng nông nghiệp chiếm 25% trong cơ cấu kinh tế.
Với lợi thế khí hậu, đất đai phù hợp, địa phương đang hình thành các vùng chuyên canh dứa, chè, cây ăn quả có múi quy mô lớn, gắn với chế biến và xuất khẩu. Nhiều sản phẩm nông sản Nghệ An đã trở thành thương hiệu đặc hữu, như Cam Vinh, Chè Shan tuyết Kỳ Sơn, chè Gay Anh Sơn, trà hoa vàng Quế Phong, gừng Kỳ Sơn, chanh leo Quế Phong, dứa Quỳnh Lưu…
Tuy nhiên, ông Đệ nhấn mạnh: “Muốn những vùng chuyên canh này thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao và phát triển bền vững, cần sự chung tay của doanh nghiệp, nhà khoa học và người dân”.
Các đại biểu tham dự diễn đàn
Theo các báo cáo tại diễn đàn, đến năm 2024, diện tích trồng dứa toàn vùng đạt 6.866 ha, sản lượng ước 132.667 tấn; riêng Nghệ An chiếm hơn 25.200 tấn. Các giống dứa phổ biến gồm Queen, Cayenne và MD2, thích hợp với đất đồi thoát nước tốt nhưng giá cả bấp bênh, liên kết tiêu thụ chưa chặt chẽ.
Cây ăn quả có múi có tiềm năng tiêu thụ nội địa và xuất khẩu lớn, diện tích toàn vùng khoảng 11.500 ha, sản lượng trên 130.000 tấn. Riêng Nghệ An trồng 6.340 ha, sản lượng 97.000 tấn mỗi năm. Tuy nhiên, cây trồng này đang đối mặt với sâu bệnh hại, đặc biệt là bệnh vàng lá greening, thiếu cơ sở bảo quản sau thu hoạch và tình trạng lạm dụng hóa chất.
Những vườn cam tại xã Quang Đồng, Nghệ An
Đối với cây chè, vùng Bắc Trung Bộ có gần 10.300 ha, trong đó Nghệ An chiếm hơn 8.760 ha, sản lượng 43.150 tấn. Sản lượng lớn nhưng chủ yếu mới dừng ở chế biến thô, xuất khẩu giá rẻ, ít sản phẩm giá trị gia tăng.
GIẢI PHÁP NÂNG TẦM GIÁ TRỊ NÔNG SẢN
Tại diễn đàn, các nhà khoa học đề xuất nhiều giải pháp nâng cao giá trị ba loại cây trồng. PGS.TS Nguyễn Văn Toàn – nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc - cho rằng cần thay thế dần các giống chè cũ bằng giống chất lượng cao như PH8, TRI 5.0, Hương Bắc Sơn, VN15…, đồng thời áp dụng công nghệ chế biến tinh, hướng đến thị trường cao cấp như châu Âu và Nhật Bản.
Với cây dứa, PGS.TS Lê Quốc Doanh – Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam - khuyến nghị các địa phương nên mở rộng diện tích giống dứa MD2 phục vụ xuất khẩu để nâng cao giá trị.
Đối với cây ăn quả có múi, TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Phó Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật cảnh báo tình trạng thoái hóa giống và sâu bệnh hại đang diễn biến nghiêm trọng, đề xuất xây dựng trung tâm giống sạch bệnh, phục tráng giống bản địa và áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến.
Ông Lê Quốc Doanh - Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam chia sẻ tại diễn đàn
Trong phần tọa đàm “Khơi thông động lực phát triển nông nghiệp hàng hóa vùng Bắc Trung Bộ”, nhiều đại biểu nhấn mạnh tầm quan trọng của liên kết vùng, chia sẻ thông tin thị trường và đào tạo nông dân sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ.
Ông Nguyễn Quý Dương – Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật - khẳng định: “Muốn sản xuất lớn, phải có liên kết bền chặt giữa Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân”.
Ông Đinh Cao Khuê – Chủ tịch DOVECO - công bố chiến lược mở rộng vùng nguyên liệu dứa. Doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư nhà máy chế biến tại địa phương nào có từ 2.000 ha dứa trở lên và đảm bảo nguồn cung ổn định.
Từ thực tiễn sản xuất, bà Nguyễn Thị Việt Hà – Bí thư Đảng ủy xã Thượng Đức, Hà Tĩnh - chia sẻ, việc trồng dứa đã thay thế cây keo cho thu nhập thấp (khoảng 10 triệu đồng/ha/năm) bằng thu nhập tới 200 triệu đồng/ha/năm, nhờ áp dụng kỹ thuật mới và hợp đồng tiêu thụ ổn định.
Ông Lê Quốc Doanh nhấn mạnh: “Nông sản Bắc Trung Bộ không thiếu tiềm năng chỉ thiếu sự tổ chức bài bản. Cần chuyển từ tư duy sản xuất nhỏ lẻ sang liên kết vùng, từ trồng truyền thống sang sản xuất theo nhu cầu thị trường. Không có cây nào không có đầu ra – vấn đề là cách tổ chức sản xuất”.
Diễn đàn lần này không chỉ là nơi chia sẻ và kết nối mà còn mở ra kỳ vọng mới cho nông sản Bắc Trung Bộ. Nếu dứa, chè và cây có múi được tổ chức sản xuất khoa học, liên kết với doanh nghiệp và ứng dụng công nghệ cao, các loại cây trồng trên sẽ trở thành ngành hàng chủ lực mang lại giá trị bền vững, góp phần nâng tầm thương hiệu nông sản vùng ra thị trường quốc tế.
Lồng ghép biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh
Tăng cường năng lực thể chế trong bảo vệ môi trường, nâng cao khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu, phục vụ định hướng phát triển xanh cho các đô thị loại II...
Nguồn lực cho các mục tiêu xanh
Phát triển thị trường carbon là một yêu cầu cấp bách. Đây cũng là cơ hội quan trọng để huy động nguồn lực tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi xanh...
Tảo biển có thể là chất liệu thời trang kiểu mới
Các bãi biển ở Mỹ Latinh đang tràn ngập một loài tảo biển xâm lấn có tên là sargassum, và biến đổi khí hậu chỉ khiến tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Một làn sóng các nhà sáng tạo trong ngành thời trang cho rằng họ có thể giải quyết vấn đề này…
Nhiều cộng đồng vùng biên Nghệ An được hưởng lợi từ chi trả giảm phát thải
Chính sách chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) là một công cụ tài chính bền vững mà lợi ích kinh tế được gắn kết trực tiếp với mục tiêu bảo vệ môi trường, bảo tồn rừng và phát triển sinh kế cho người dân vùng núi...
Ba loại dự án cấp thiết được tạm sử dụng rừng để thi công
Việc sửa đổi bổ sung quy định về tạm sử dụng rừng nhằm đảm bảo tiến độ xây dựng các dự được Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư, các dự án phục vụ quốc phòng an ninh, dự án khẩn cấp; dự án cấp thiết về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Đặc biệt đảm bảo tiến độ 2 dự án đường sắt quan trọng quốc gia (đường sắt tốc độ cao trục Bắc- Nam và tuyến đường sắt Lào Cai- Hà Nội- Hải Phòng)…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: