Chuyển đổi xanh đã trở thành xu hướng toàn cầu, một đòi hỏi tất yếu với các doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh trên thị trường, phát triển bền vững. Thuy nhiên, theo các chuyên gia, các doanh nghiệp tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn trong quá trình giảm phát thải và chuyển đổi xanh...
Ảnh minh họa
Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với hai mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 và đạt được Net Zero vào năm 2050. Đây là hai mục tiêu đầy thách thức vì phải chuyển đổi cơ bản nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng theo hướng đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, thay thế cho mô hình tăng trưởng dựa trên thâm dụng tài nguyên và lao động trong những năm qua.
KHÓ KHĂN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CHUYỂN ĐỔI XANH
Tại tọa đàm về chuyển đổi xanh doanh nghiệp, đại diện Hiệp hội doanh nghiệp TP.Hồ Chí Minh cho rằng chuyển đổi xanh còn nhiều thách thức, mà một trong số rào cản với doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam khi thực hiện dự án xanh là tài chính.
Bàn về những thách thức khi chuyển đổi xanh, Hiệp hội doanh nghiệp TP.Hồ Chí Minh dẫn ra báo cáo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho hay 65% doanh nghiệp gặp vướng mắc tài chính để thực hiện các dự án xanh.
Mặc dù đã có các cơ chế tài chính hỗ trợ nhưng việc đưa nguồn vốn này đến đối tượng vẫn là một bài toán khó. Bên cạnh đó, nhân lực cũng là một yếu tố đáng lo ngại. Chỉ có khoảng 12% doanh nghiệp tại TP.Hồ Chí Minh sở hữu đội ngũ nhân sự có chuyên môn về ESG (môi trường, xã hội và quản trị).
Công nghệ cũng là một thách thức quan trọng, đặc biệt trong các ngành có mức độ phát thải cao như dệt may. Hiện tại, khoảng 40% thiết bị trong ngành này đã lạc hậu, khiến việc giảm phát thải carbon trở thành một vấn đề nan giải. Trong bối cảnh Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều đối thủ trên thị trường quốc tế, việc nâng cấp công nghệ và đáp ứng các tiêu chuẩn xanh là bắt buộc.
Ngoài ra, nhận thức của doanh nghiệp cũng là một rào cản lớn. Không phải doanh nghiệp nào cũng hiểu rõ tầm quan trọng của chuyển đổi xanh và sẵn sàng đầu tư dài hạn cho quá trình này.
Tại hội thảo về giải pháp chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero vừa diễn ra tuần qua, TS.Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) chia sẻ những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải khi thực hiện chuyển đổi xanh. Một khảo sát do Ban IV thực hiện gần đây cho thấy có ba khó khăn lớn nhất được doanh nghiệp xác định gồm: thiếu nguồn vốn để triển khai các giải pháp giảm phát thải; thiếu nhân sự có chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyển đổi xanh; và thiếu giải pháp kỹ thuật cụ thể, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong đó, vấn đề vốn được xem là trở ngại lớn nhất. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 50% doanh nghiệp cho rằng họ gặp khó khăn về vốn, trong khi chỉ 5,9% cho rằng không gặp trở ngại nào.
Tỉ lệ doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp chế biến– chế tạo và nông– lâm– thủy sản gặp khó khăn về vốn lần lượt là 53,7% và 52,9%. Doanh nghiệp trong nước khó khăn hơn so với doanh nghiệp FDI (50,3% so với 46,6%). Đáng chú ý, doanh nghiệp quy mô vừa là nhóm gặp khó khăn về vốn lớn nhất– với 62,7% doanh nghiệp có doanh thu từ 1.000– 1.500 tỉ đồng cho biết thiếu nguồn lực tài chính để chuyển đổi xanh.
Trong khi nhu cầu vốn là rất lớn, thị trường tài chính xanh của Việt Nam vẫn còn phát triển chậm. Theo ước tính của World Bank (2022), Việt Nam cần khoảng 368 tỷ USD trong giai đoạn 2022–2040 để xây dựng khả năng chống chịu và giảm phát thải khí nhà kính, tương đương 6,8% GDP mỗi năm. Trong đó, khu vực tư nhân dự kiến phải huy động gần 184 tỉ USD, tức gần 50% tổng nhu cầu vốn.
Trên thực tế, quy mô tín dụng xanh vẫn còn hạn chế. Tính đến cuối năm 2023, dư nợ tín dụng xanh toàn hệ thống mới đạt gần 621.000 tỉ đồng, chiếm khoảng 4,5% tổng dư nợ nền kinh tế, chủ yếu tập trung vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (gần 45%) và nông nghiệp xanh (30%).
Việc triển khai tín dụng xanh vẫn gặp nhiều vướng mắc, như thiếu khung pháp lý rõ ràng, thiếu chính sách đồng bộ, nguồn vốn của tổ chức tín dụng chủ yếu là vốn ngắn và trung hạn, trong khi các dự án xanh cần vốn dài hạn và lãi suất ưu đãi. Đối với trái phiếu xanh, vẫn còn thiếu hướng dẫn chi tiết về tiêu chí dự án, cơ chế giám sát sử dụng vốn, và quy định pháp lý minh bạch.
Ngoài ra, tiếp cận các nguồn tài chính quốc tế, dù có tiềm năng lớn, cũng chưa dễ dàng. Quan hệ đối tác JETP dự kiến phân bổ 15,5 tỉ USD giai đoạn 2024–2028 để hỗ trợ Việt Nam triển khai các dự án chuyển đổi năng lượng. Tuy nhiên, phần lớn khoản tài chính này chỉ được giải ngân cho các dự án “chưa huy động được vốn” hoặc “đang ở giai đoạn đề xuất ý tưởng”.
Các tổ chức quốc tế phản ánh tiến độ triển khai hiện còn chậm, cùng với nhiều rào cản về thủ tục hành chính, thẩm định, và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế khiến khả năng tiếp cận vốn JETP của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Do đó, theo ông Minh, nếu không sớm có giải pháp tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, vốn và năng lực kỹ thuật, quá trình chuyển đổi xanh của doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân trong nước sẽ bị chậm lại, làm suy giảm hiệu quả của các cam kết quốc gia về khí hậu và gây lãng phí cơ hội tiếp cận nguồn lực tài chính toàn cầu.
MỨC ĐỘ SẴN SÀNG TRONG GIẢM PHÁT THẢI, CHUYỂN ĐỔI XANH
Trong một hội thảo diễn ra trước đó, chia sẻ về mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp trong hoạt động giảm phát thải và chuyển đổi xanh, chuyên gia đến từ Ban IV lưu ý rằng ở cấp độ doanh nghiệp, phát triển bền vững đã được quan tâm, triển khai rộng rãi. Báo cáo của KPMG năm 2022 cho thấy 79% các công ty hàng đầu thế giới xuất bản báo cáo bền vững.
Bên cạnh đó, 96% các công ty trong nhóm G250 có báo cáo về phát triển bền vững hoặc ESG; 64% các công ty coi biến đổi khí hậu là một rủi ro với hoạt động kinh doanh của mình…
Trước những biến động của tình hình quốc tế và trong nước, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao khả năng thích ứng để vượt qua các rào cản và thách thức ngày càng gia tăng.
Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng và năng lực chuyển đổi của nhiều doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, phản ánh sự thiếu hụt cả về nguồn lực tài chính, kỹ thuật, thông tin và môi trường hỗ trợ chính sách.
Về mức độ sẵn sàng, phần lớn doanh nghiệp mới chỉ dừng ở mức quan tâm hoặc có định hướng bước đầu. Cụ thể, theo kết quả khả sát của Ban IV, có đến 64% doanh nghiệp chưa thực hiện bất kỳ hành động chuyển đổi xanh nào, trong khi chỉ khoảng 5,5% doanh nghiệp đã cắt giảm phát thải trong một số hoạt động và 3,8% đã theo dõi, công bố kết quả giảm phát thải. Con số này cho thấy phần lớn doanh nghiệp vẫn ở giai đoạn chuẩn bị, chưa chuyển sang hoạch định hoặc thực thi các giải pháp xanh cụ thể.
Về động lực thúc đẩy chuyển đổi xanh, khảo sát cho thấy các yếu tố nội tại đóng vai trò quan trọng. 51,9% doanh nghiệp nhận định chuyển đổi xanh giúp tối ưu hiệu quả hoạt động, trong khi 36,7% cho biết họ chịu áp lực từ khách hàng và đối tác trong chuỗi cung ứng.
Tuy nhiên, các cơ hội tài chính mới như tạo doanh thu từ tín chỉ carbon hoặc tiếp cận tín dụng ưu đãi, chưa được nhận diện đầy đủ. Cụ thể mới chỉ có 22,7% doanh nghiệp xem đây là động lực quan trọng. Điều này cho thấy các công cụ thị trường vẫn chưa được khai thác hiệu quả, phần nào phản ánh hạn chế về thông tin và năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp.
Kết quả khảo sát cho thấy doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi xanh. Dù đã hình thành nhận thức và có những động lực nội tại nhất định, nhưng các rào cản tài chính, năng lực kỹ thuật và thiếu hệ sinh thái hỗ trợ đồng bộ vẫn là trở ngại lớn.
Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đã được coi là động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế. Với hai mục tiêu trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045 và đạt được Net Zero vào năm 2050 thì khu vực tư nhân cũng đóng vai trò trung tâm. Đại diện Ban IV cho rằng các doanh nghiệp trong bối cảnh mới cần phải cải tiến công nghệ, tăng năng suất lao động, đồng thời hướng tới thực hành và tiên phong trong các tiêu chuẩn bền vững. Để hỗ trợ doanh nghiệp dòng vốn dài hạn cho chuyển đổi, tín dụng xanh cần phải được đẩy mạnh…
Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nêu rõ chủ trương đẩy mạnh và đa dạng hoá nguồn vốn cho kinh tế tư nhân.
Nghị quyết yêu cầu rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho kinh tế tư nhân. Có chính sách ưu tiên một phần nguồn tín dụng thương mại để dành cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo vay để đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và tín dụng xuất khẩu, tín dụng theo chuỗi cung ứng…
Cùng với đó đẩy mạnh phát triển tín dụng xanh; Nhà nước có cơ chế hỗ trợ lãi suất và khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho doanh nghiệp tư nhân vay để triển khai các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG).
Lồng ghép biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh
Tăng cường năng lực thể chế trong bảo vệ môi trường, nâng cao khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu, phục vụ định hướng phát triển xanh cho các đô thị loại II...
Nguồn lực cho các mục tiêu xanh
Phát triển thị trường carbon là một yêu cầu cấp bách. Đây cũng là cơ hội quan trọng để huy động nguồn lực tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi xanh...
Tảo biển có thể là chất liệu thời trang kiểu mới
Các bãi biển ở Mỹ Latinh đang tràn ngập một loài tảo biển xâm lấn có tên là sargassum, và biến đổi khí hậu chỉ khiến tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Một làn sóng các nhà sáng tạo trong ngành thời trang cho rằng họ có thể giải quyết vấn đề này…
Nhiều cộng đồng vùng biên Nghệ An được hưởng lợi từ chi trả giảm phát thải
Chính sách chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) là một công cụ tài chính bền vững mà lợi ích kinh tế được gắn kết trực tiếp với mục tiêu bảo vệ môi trường, bảo tồn rừng và phát triển sinh kế cho người dân vùng núi...
Ba loại dự án cấp thiết được tạm sử dụng rừng để thi công
Việc sửa đổi bổ sung quy định về tạm sử dụng rừng nhằm đảm bảo tiến độ xây dựng các dự được Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư, các dự án phục vụ quốc phòng an ninh, dự án khẩn cấp; dự án cấp thiết về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Đặc biệt đảm bảo tiến độ 2 dự án đường sắt quan trọng quốc gia (đường sắt tốc độ cao trục Bắc- Nam và tuyến đường sắt Lào Cai- Hà Nội- Hải Phòng)…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: