Hành lang pháp lý để thu hút đầu tư năng lượng tái tạo, năng lượng mới
Tùng Dương
08/11/2024, 08:54
Sửa đổi Luật Điện lực cần phải đồng thời đáp ứng cả 2 mục tiêu, vừa đạt mục tiêu trước mắt bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, vừa đạt mục tiêu lâu dài thực hiện đầy đủ cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng việc thúc đẩy năng lượng tái tạo, năng lượng xanh là cần thiết...
Ảnh minh họa
Thảo luận về Luật Điện lực sửa đổi chiều ngày 7/11, các đại biểu khẳng định sự cần thiết sửa đổi Luật Điện lực, do Luật hiện hành thiếu nhiều nội dung đã và đang phát sinh trong thực tiễn, nên cần phải có căn cứ pháp lý cụ thể quy định, hướng dẫn để triển khai thực hiện, phù hợp với xu hướng phát triển chung.
ĐẦU TƯ ĐIỆN GIÓ GẦN BỜ VÀ ĐIỆN GIÓ NGOÀI KHƠI
Góp ý dự thảo luận, đại biểu Trần Quốc Tuấn, đoàn Trà Vinh, nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết cần phải khai thác hiệu quả nguồn lực tài nguyên sẵn có, nhất là các dự án điện năng lượng tái tạo, năng lượng mới để đạt đồng thời 2 mục tiêu trên.
Hiện nay nguồn lực ngoài nhà nước đã và đang đầu tư vào lĩnh vực này rất nhiều, nếu thiếu hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, sẽ làm lãng phí lớn nguồn lực xã hội như nhiều trường hợp dự án điện gió, điện mặt trời hiện nay đã hoàn thành nhưng không thể hoà lưới thương mại…
Về khái niệm “Nhà máy điện gió gần bờ” và khái niệm “Nhà máy điện gió ngoài khơi” nêu tại Khoản 5 Điều 31 và Khoản 1 Điều 39 Dự thảo Luật, đại biểu cho rằng cả 2 khái niệm này là chưa rõ, chưa thống nhất, khó xác định và sẽ dẫn đến khó thực hiện.
Đại biểu Trần Quốc Tuấn, đoàn Trà Vinh, phát biểu ý kiến.
Ngoài ra, tại Điều 46 quy định điều kiện nhà đầu tư nước ngoài thực hiện phát triển điện gió ngoài khơi, đại biểu đề nghị nghiên cứu bổ sung nội dung “hình thức đầu tư tư nhân và đầu tư có vốn nước ngoài trên nguyên tắc đảm bảo an ninh quốc phòng”.
Tại Điều 27 Dự thảo Luật, về Đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư các dự án điện lực không thực hiện đầu tư theo phương thức đối tác công tư và đầu tư công. Đại biểu đề nghị cần bổ sung vào khoản 4 điều này với nội dung “loại hình điện gió trên biển” gồm cả “điện gió gần bờ và điện gió ngoài khơi”.
Đại biểu lý giải, ngoài loại hình điện khí, điện gió trên bờ và năng lượng mới được quy định trong dự thảo luật, thì hiện nay có nhiều nhà đầu tư điện gió gần bờ và điện gió ngoài khơi đang rất cần sự an toàn vốn khi bỏ ra một số tiền rất lớn để đầu tư.
Điển hình như họ cần sự bảo đảm của nhà nước trong bảo lãnh đầu tư, chuyển đổi ngoại tệ, cam kết về chuyển giao công nghệ và sử dụng hàng hóa và dịch vụ trong nước…
“Nếu được bổ sung nội dung này, sẽ thu hút được nhiều hơn các nhà đầu tư điện gió gần bờ và điện gió ngoài khơi tham gia phát triển điện lực trong nước, góp phần lớn vào việc vừa đạt mục tiêu vừa bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, nhưng cũng vừa thực hiện đúng cam kết quốc tế của Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050”, đại biểu Tuấn nói.
Bên cạnh đó, dự thảo luật cần có quy định chính sách ưu đãi thu hút đầu tư FDI và chuyển giao công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài có kinh nghiệm trong sản xuất thiết bị điện gió đến Việt Nam đầu tư và chuyển giao công nghệ cho các đối tác trong nước. Điều này giúp nâng cao năng lực sản xuất, đồng thời đảm bảo chất lượng sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế…
Ngoài ra, còn rất nhiều nội dung khác cần quan tâm, như các dự án điện gió ngoài khơi cần phải được điều chỉnh tại các điều khoản của Luật đầu tư và các dự án luật khác… để có đủ cơ sở pháp lý triển khai thực hiện đầu tư các dự án trên biển….
Đồng thuận với quan điểm trên, đại biểu Nguyễn Hữu Thông, đoàn Bình Thuận, đề nghị bổ sung thêm loại hình “điện gió ngoài khơi” trong các loại hình điện để làm cơ sở cho triển khai thực hiện trên thực tế. Bởi lẽ Việt Nam có tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi và hiện nay có nhiều nhà đầu tư đang xin chủ trương đầu tư loại hình này nhưng chưa được quy định trong dự thảo Luật. Tuy nhiên, cần có điều khoản nhằm hạn chế các nhà đầu tư điện gió ngoài khơi chuyển nhượng dự án cho các đối tác khác bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhấn mạnh điện gió ngoài khơi là nội dung mới, có liên quan đến quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo và liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều bộ, ngành, cơ quan. Do đó, đại biểu Nguyễn Văn Huy, đoàn Thái Bình, đề nghị cơ quan soạn thảo cần đánh giá kỹ tác động, rà soát, bổ sung nội dung quy định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong việc phát triển điện gió ngoài khơi và có quy định cụ thể, chặt chẽ đối với điều kiện chuyển nhượng các dự án điện gió ngoài khơi.
Ngoài ra, cần bổ sung quy định liên quan đến điện gió gần bờ và điện gió trên bờ để bảo đảm minh bạch, rõ ràng và thống nhất trong việc quản lý điện gió.
THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG XANH, NĂNG LƯỢNG MỚI
Theo đại biểu Nguyễn Thị Thu Thủy, đoàn Bình Định, việc sửa đổi Luật Điện lực lần này không chỉ mang lại lợi ích cho ngành điện mà còn có tác động tích cực đến kinh tế xã hội nói chung, cung cấp đủ điện, khuyến khích năng lượng tái tạo phục vụ phát triển kinh tế xã hội, sản xuất, sinh hoạt của người dân.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay, năng lượng gió được xem là chìa khóa để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy nền kinh tế không carbon. Chuyển đổi năng lượng sạch và năng lượng tái tạo là một giải pháp cần thiết để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững về năng lượng sạch và giá cả phải chăng đến năm 2030 do Liên Hiệp quốc đề ra.
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Thủy, đoàn Bình Định, phát biểu tại hội trường.
Tuy nhiên, việc phát triển các nguồn năng lượng gió trong thời gian qua vẫn tiếp tục đối mặt với một số bất cập và thách thức như chi phí đầu tư còn cao, số giờ vận hành nguồn điện thấp, công nghệ còn chưa đáp ứng được.
Từ Điều 36 đến Điều 38 thì quy định nhiều chính sách về phát triển điện lực, các điều khoản liên quan đến an ninh, quốc phòng, việc cấp phép đầu tư lĩnh vực điện gió ngoài khơi; tại Điều 41, Điều 42 về lựa chọn nhà đầu tư dự án điện gió ngoài khơi. Đồng tình với các ý kiến, đại biểu cho rằng việc tạo hành lang pháp lý, qua đó sẽ thu hút các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực điện tái tạo, đảm bảo được sự yên tâm của các nhà đầu tư trong lĩnh vực này, góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Tham gia góp ý vấn đề năng lượng tái tạo, đại biểu Thạch Phước Bình, đoàn Trà Vinh, nhận xét về khung chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo, hiện nay, dự thảo luật chưa đề cập đầy đủ về cơ chế phát triển năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và thủy điện nhỏ. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng việc thúc đẩy năng lượng tái tạo là cần thiết để bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Đại biểu Thạch Phước Bình, đoàn Trà Vinh phát biểu tại hội trường.
Trên cơ sở đó, đại biểu đề xuất bổ sung quy định về tỷ lệ đóng góp tối thiểu của năng lượng tái tạo trong tổng sản lượng điện quốc gia nhằm đảm bảo lộ trình chuyển dịch sang năng lượng sạch. Xây dựng cơ chế hỗ trợ cụ thể cho các dự án năng lượng tái tạo như ưu đãi thuế, hỗ trợ giá và giảm thiểu thủ tục hành chính cho nhà đầu tư. Quy định rõ ràng và chi tiết về quy trình thẩm định và phê duyệt các dự án năng lượng tái tạo, đảm bảo minh bạch và đồng bộ.
Phát triển điện khí và điện hydro xanh, nguồn năng lượng sạch và bền vững cần thiết để bổ sung vào hệ thống năng lượng quốc gia. Đại biểu đề xuất đưa vào các quy định khuyến khích đầu tư và sản xuất điện từ khí đốt và hydro xanh, ưu đãi thuế và vốn vay ưu đãi cho các doanh nghiệp tham gia phát triển các dự án điện khí và hydro xanh. Cùng đó có quy định nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất điện từ hydro và khí đốt, hướng tới các giải pháp tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.
Cùng quan tâm phát triển các nguồn năng lượng mới, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân, đoàn Bình Dương, nhấn mạnh rằng hydro xanh và amoniac xanh là năng lượng của tương lai. Luật bước đầu đã đề cập đến các nguồn năng lượng mới này, đây là những nguồn năng lượng tiên tiến, có khả năng giảm thiểu mạnh lượng phát thải và hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh của Việt Nam.
Vì vậy, đại biểu đề nghị cần cụ thể hóa hơn nữa các chính sách ưu đãi đối với các dự án phát triển hydro xanh và amoniac xanh, chẳng hạn như ưu đãi về thuế, trợ cấp tài chính hoặc ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, khuyến khích hợp tác quốc tế chuyển giao công nghệ và thu hút đầu tư từ các nước phát triển năng lượng sạch như EU, Nhật Bản và Đức.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên.
"Theo xu hướng chung và cam kết trung hòa carbon vào năm 2050 của Chính phủ Việt Nam, chúng ta phải phát triển mạnh năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Trong khi đó, năng lượng tái tạo chưa có quy định cụ thể trong luật hiện hành kể cả trong luật sửa đổi lần thứ 4.
Vấn đề năng lượng mới trong đó có hydrogen, amoniac xanh, chúng ta đã công bố Quy hoạch điện VIII, từ hơn 1 năm nay, đến giờ này không có nhà đầu tư mới nào đề xuất dự án, vì không có quy định cụ thể, rõ ràng về cơ chế chính sách trong khi chỉ còn 5,5 năm nữa chúng ta phải tăng gấp 2 lần tổng công suất các nguồn điện (hiện chỉ có khoảng 80.000 MW) lên tới 150.524 MW.
Nếu không kịp thời sửa đổi, bổ sung ban hành cơ chế chính sách phù hợp, khả thi thì chắc chắn không có nhà đầu tư vào, không thể nào đáp ứng được nhu cầu năng lượng cho đất nước.
Tiềm năng năng lượng tái tạo rất lớn nhưng nếu không có cơ chế, chính sách thì không thể nào mở đến mức tối đa khả năng có thể cho các địa phương.
Về 6 nhóm chính sách cụ thể trong dự thảo luật, đã quy định rõ hơn về thẩm quyền quyết định và những cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới, điện khí, điện hydro xanh".
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên.
"Theo xu hướng chung và cam kết trung hòa carbon vào năm 2050 của Chính phủ Việt Nam, chúng ta phải phát triển mạnh năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Trong khi đó, năng lượng tái tạo chưa có quy định cụ thể trong luật hiện hành kể cả trong luật sửa đổi lần thứ 4.Vấn đề năng lượng mới trong đó có hydrogen, amoniac xanh, chúng ta đã công bố Quy hoạch điện VIII, từ hơn 1 năm nay, đến giờ này không có nhà đầu tư mới nào đề xuất dự án, vì không có quy định cụ thể, rõ ràng về cơ chế chính sách trong khi chỉ còn 5,5 năm nữa chúng ta phải tăng gấp 2 lần tổng công suất các nguồn điện (hiện chỉ có khoảng 80.000 MW) lên tới 150.524 MW. Nếu không kịp thời sửa đổi, bổ sung ban hành cơ chế chính sách phù hợp, khả thi thì chắc chắn không có nhà đầu tư vào, không thể nào đáp ứng được nhu cầu năng lượng cho đất nước.Tiềm năng năng lượng tái tạo rất lớn nhưng nếu không có cơ chế, chính sách thì không thể nào mở đến mức tối đa khả năng có thể cho các địa phương.Về 6 nhóm chính sách cụ thể trong dự thảo luật, đã quy định rõ hơn về thẩm quyền quyết định và những cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới, điện khí, điện hydro xanh".
Lồng ghép biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh
Tăng cường năng lực thể chế trong bảo vệ môi trường, nâng cao khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu, phục vụ định hướng phát triển xanh cho các đô thị loại II...
Nguồn lực cho các mục tiêu xanh
Phát triển thị trường carbon là một yêu cầu cấp bách. Đây cũng là cơ hội quan trọng để huy động nguồn lực tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi xanh...
Tảo biển có thể là chất liệu thời trang kiểu mới
Các bãi biển ở Mỹ Latinh đang tràn ngập một loài tảo biển xâm lấn có tên là sargassum, và biến đổi khí hậu chỉ khiến tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Một làn sóng các nhà sáng tạo trong ngành thời trang cho rằng họ có thể giải quyết vấn đề này…
Nhiều cộng đồng vùng biên Nghệ An được hưởng lợi từ chi trả giảm phát thải
Chính sách chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) là một công cụ tài chính bền vững mà lợi ích kinh tế được gắn kết trực tiếp với mục tiêu bảo vệ môi trường, bảo tồn rừng và phát triển sinh kế cho người dân vùng núi...
Ba loại dự án cấp thiết được tạm sử dụng rừng để thi công
Việc sửa đổi bổ sung quy định về tạm sử dụng rừng nhằm đảm bảo tiến độ xây dựng các dự được Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư, các dự án phục vụ quốc phòng an ninh, dự án khẩn cấp; dự án cấp thiết về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Đặc biệt đảm bảo tiến độ 2 dự án đường sắt quan trọng quốc gia (đường sắt tốc độ cao trục Bắc- Nam và tuyến đường sắt Lào Cai- Hà Nội- Hải Phòng)…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: