Khó thu hẹp mạng lưới ngân hàng ở nông thôn và miền núi
Nguyễn Hoài
09/04/2025, 10:09
Cứ mỗi sáng, 3 cán bộ tín dụng của chi nhánh một ngân hàng ở Mường Nhé (Điện Biên) có mặt tại trụ sở từ sớm để chuẩn bị cho một ngày làm việc hối hả. Người xuống địa bàn kiểm tra món vay, người đi thẩm định phương án. Thiếu nhân lực, giao thông đi lại khó khăn, nhất là vào mùa mưa, 3 cán bộ này gần như không ngớt việc với số dư nợ 280 tỷ đồng…
Một dự án cá lồng bè tại đảo Nam Du (Kiên Giang) vay vốn Agribank
Ông Lò Thanh Tùng, Trưởng phòng Khách hàng Agribank chi nhánh Mường Nhé (Điện Biên), cho biết chi nhánh này có 12 cán bộ nhưng chỉ 3 cán bộ tín dụng, 9 người còn lại đảm nhiệm hầu hết nghiệp vụ khác. Ba cán bộ này phụ trách dư nợ 280 tỷ đồng của 1.200 khách hàng trên địa bàn huyện có diện tích 1.573,73 km2 và dân số xấp xỉ 50 nghìn người, với 90% đồng bào là dân tộc thiểu số (Hà Nhì, Mông…) của 116 bản trên địa bàn 11 xã.
PHẢI TRÈO NÚI, LỘI SUỐI MỚI ĐẾM ĐƯỢC LỢN, GÀ
“Hộ vay gần trụ sở thì không nói làm gì nhưng khó nhất là di chuyển đến các hộ vay cách trung tâm huyện từ 60 – 70 km. Đường xa khó đi, phương tiện bằng xe máy, vào mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8, xuống địa bàn rất gian nan”, ông Tùng chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy.
Ông Tùng cho biết thêm, do địa bàn khó khăn nên ở Mường Nhé có rất ít ngân hàng hoạt động. Ngoài Agribank và Ngân hàng Chính sách xã hội, chỉ có một chi nhánh Ngân hàng TMCP Lộc Phát (LPBank). Tuy nhiên, dư nợ của LPBank chiếm tỷ trọng rất nhỏ, tập trung ở thị trấn huyện, phần lớn nhu cầu vay thương mại dồn về Agribank.
Với địa bàn rộng và xa như vậy, cán bộ tín dụng vẫn phải thực hiện đúng quy trình kiểm tra nội bộ, 15 ngày sau khi giải ngân xuống hộ vay một lần, sau đó thì tuỳ thuộc kỳ hạn vay là ngắn hạn hay trung hạn, dài hạn, đều phải xuống kiểm tra việc sử dụng vốn theo định kỳ.
Không chỉ ở vùng cao, cán bộ tín dụng ở các đảo xa xôi như Nam Du (xã An Sơn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang) hoạt động cũng rất khó khăn. Cũng nhờ vay vốn ngân hàng mà hộ ông Phạm Văn Lưu (tổ 2, ấp An Cư, xã An Sơn, Kiên Hải, Kiên Giang) đã thay đổi diện mạo cuộc sống. Tận dụng nguồn vốn ban đầu từ Agribank nuôi cá lồng, đến nay ông đã trả hết nợ và tự duy trì hoạt động nuôi trồng bằng chính đồng vốn của mình.
“Hiện tại gia đình đã tất toán nợ vay với ngân hàng, dùng vốn tự có mở rộng mô hình vừa nuôi lồng bè ngoài đảo, vừa nuôi cá nước lợ”.
Ông Phạm Văn Lưu, tổ 2, ấp An Cư, xã An Sơn, Kiên Hải, Kiên Giang.
Hoạt động tín dụng ở vùng đảo xa xôi, cán bộ tín dụng vô cùng vất vả, nhất là đi thuyền ra biển xa bờ cả chục cây số, đối mặt sóng to gió lớn để kiểm tra việc nuôi cá lồng bè. Dù vậy, họ vẫn bám trụ địa bàn, từ một vài người vay ăn nên làm ra, ngân hàng phối hợp với cán bộ khuyến ngư hỗ trợ tập huấn kiến thức và lên các phương án nuôi trồng, số khách hàng vay cứ tăng dần hàng năm.
Một ngân hàng khác chuyên hoạt động trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo là Ngân hàng Chính sách xã hội, địa bàn hoạt động cũng gian nan không kém Agribank.
“Hầu như bất cứ nơi nào địa bàn khó khăn nhất, hệ thống giao thông kém nhất, rừng núi hải đảo xa xôi nhất và tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là ở đó có cán bộ tín dụng Ngân hàng Chính sách xã hội. Dù phải trèo núi, lội suối nhưng vẫn phải đi thì mới đếm được lợn, gà”, một cán bộ ngân hàng chia sẻ.
Cho vay hộ nghèo ở xã Ma Li Pho, Huyện Phong Thổ Lai Châu. Ảnh: Cổng Thông tin huyện Phong Thổ, Lai Châu.
Thực tế cho thấy ở một số vùng đặc biệt khó khăn, ngay cả Agribank chưa có phòng giao dịch nhưng Ngân hàng Chính sách xã hội phải có mặt. Về mức độ vất vả thì không cán bộ tín dụng ở ngân hàng nào có thể so sánh với cán bộ tín dụng Ngân hàng Chính sách xã hội. Nếu là ở địa bàn đồng bằng, mỗi ngày một cán bộ tín dụng có thể đối chiếu cả chục khách hàng nhưng ở Ngân hàng Chính sách xã hội, một cán bộ chỉ có thể đối chiếu khoản vay vài ba hộ nằm rải rác và cheo leo trên các sườn núi.
MỖI CÁN BỘ QUẢN LÝ CẢ NGHÌN KHÁCH HÀNG
Một lãnh đạo ngân hàng Agribank cho biết, cả nước có 10.500 xã thì bình quân 4,5 xã có một điểm giao dịch Agribank. Hiện tại, Agribank có khoảng 2.300 điểm giao dịch. Kết thúc năm 2024, tổng tài sản ngân hàng đạt trên 2,2 triệu tỷ đồng, huy động vốn vượt 2 triệu tỷ đồng, dư nợ tín dụng đạt trên 1,72 triệu tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức 1,56%.
Đáng chú ý, mặc dù tổng tài sản tăng hơn 19%, nguồn vốn tăng hơn 18%, dư nợ tăng hơn 19%; tuy nhiên, nhân sự trong toàn hệ thống chỉ tăng hơn 3%.
“Nhân sự chỉ tăng 3% là bởi ngân hàng cố gắng tối đa tiết giảm nhân lực, tổ chức sắp xếp lại bộ máy, giảm đầu mối trung gian và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số để thay thế một lượng lớn nhân lực”
Lãnh đạo Agribank.
Hiện tại, mỗi cán bộ tín dụng Agribank bình quân phụ trách 700 khách hàng vay vốn. Ở một số địa bàn áp lực nhất thì con số này lên tới 800 – 1.000 khách hàng. Miền núi thì thấp hơn mức này, ước khoảng 600 nhưng địa bàn lại quá rộng. Việc một cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn là vài ba quả núi mà trên đỉnh hoặc lưng chừng có dăm bảy hộ vay vốn là chuyện bình thường.
Tuy nhiên, kỷ lục về một cán bộ quản lý số lượng khách hàng thì phải kể đến Ngân hàng Chính sách xã hội. Cả nước hiện có 24 triệu hộ, Ngân hàng Chính sách xã hội quản lý 6,9 triệu hộ, tương đương 34,2% số hộ cả nước, với khoảng 629 phòng giao dịch. Tuy nhiên, số cán bộ tín dụng ngân hàng này chỉ 4.000 người, bình quân mỗi cán bộ tín dụng phụ trách 1.725 khách hàng. Áp lực công việc của cán bộ tín dụng ngân hàng này còn được giảm tải một phần nhờ tận dụng công sức của các tổ đội vay vốn. Nhóm cán bộ này không hưởng lương ngân sách, chỉ nhận hoa hồng, phí, nên tiết giảm chi phí rất lớn trong quá trình vận hành dòng vốn ngân sách đến với người nghèo.
Mặc dù ngân hàng đã ứng dụng công nghệ nhưng cũng chỉ thực hiện ở một số khâu trung gian thôi, hiện tại số lượng cán bộ quá ít, mỗi phòng giao dịch chỉ 9 – 10 người nhưng quản lý mấy chục nghìn khách hàng, lãnh đạo Agribank cho biết.
ĐỊA BÀN ĐẶC THÙ KHÓ TINH GIẢN DIỆN RỘNG
Bà Nguyễn Thị Phượng, nguyên Phó Tổng giám đốc Agribank, cho biết với áp lực địa bàn rộng, chủ yếu ở nông thôn, miền núi và hải đảo xa xôi nên Agribank rất khó thu hẹp mạng lưới và tinh giản nhân lực. Ngay cả lãnh đạo các địa phương cũng không bao giờ tán thành việc ngân hàng này thu hẹp mạng lưới.
“Nhiều đời Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng ngần ngại khi đặt vấn đề có nên cổ phần hóa Agribank hay không. Bởi lẽ, khi còn 100% vốn Nhà nước thì ngoài việc bảo toàn vốn, kinh doanh hiệu quả, ngân hàng còn là cánh tay nối dài của Chính phủ thực hiện mục tiêu thoát nghèo bền vững, tiếp cận tài chính toàn diện, mở rộng tài chính vi mô”, bà Phượng chia sẻ.
Về vấn đề “số hóa thay người”, bà Phượng cho rằng, chỉ có ngân hàng ở khu vực đô thị thì triển khai hiệu quả, còn ở địa bàn nông thôn, miền núi chỉ thực hiện một phần, bởi vì sự hạn chế hạ tầng công nghệ, internet, người dân ít có điều kiện sử dụng điện thoại thông minh, kiến thức công nghệ hạn chế. Hơn nữa, tâm lý nông dân là đến ngân hàng giao dịch trực tiếp, tự tay mình cầm cuốn sổ tiết kiệm để tránh bị lừa đảo.
Tại Ngân hàng Chính sách xã hội, việc áp dụng công nghệ, giao dịch trực tuyến cũng chỉ ở một số khâu, một số nghiệp vụ ở địa bàn thuận tiện giao thông. Thực tế, nhóm khách hàng đa phần là hộ nghèo, tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh rất thấp, hệ thống công nghệ của Ngân hàng Chính sách xã hội tương đối lạc hậu so với ngân hàng khác, do đó chưa thể triệt để thực hiện chuyển đổi số.
Một lý do khác khiến ngân hàng này không thể thu hẹp hệ thống là không chỉ cho vay là xong mà còn phải trực tiếp phối hợp với chính quyền địa phương, tổ đội vay vốn, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh… đối soát các khoản vay cũng như kiểm tra hiệu quả sử dụng vốn. Quá trình này thường kéo dài vài năm kể từ lúc cho vay đến khi thu hồi hết nợ gốc, lãi.
Đó là lý do từ năm 2013 đến nay, Ngân hàng Nhà nước khuyến khích các tổ chức tín dụng mở mới các chi nhánh, phòng giao dịch ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa; đồng thời, giảm dần chi nhánh, phòng giao dịch ở khu vực thành thị, nhằm góp phần hiện thực hóa Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.
Thông tư 32/2024/TT-NHNN về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại:
Khoản 3, Điều 8:
Ngân hàng thương mại có thời gian hoạt động từ 12 tháng trở lên tính từ ngày khai trương hoạt động đến thời điểm đề nghị được thành lập không quá năm (05) chi nhánh và số chi nhánh tại vùng nông thôn chiếm ít nhất 50% tổng số chi nhánh được thành lập trong một năm tài chính.
Khoản 4, Điều 12:
Ngân hàng thương mại có thời gian hoạt động từ 12 tháng trở lên tính từ ngày khai trương hoạt động đến thời điểm đề nghị được thành lập không quá 10 phòng giao dịch và số lượng phòng giao dịch tại vùng nông thôn chiếm ít nhất 50% tổng số phòng giao dịch được thành lập trong một năm tài chính.
Phanh phui nhiều đường dây trốn thuế, mua bán trái phép hóa đơn
Cơ quan công an tại Quảng Trị và Hà Tĩnh đã khởi tố nhiều vụ án liên quan đến hành vi trốn thuế và mua bán trái phép hóa đơn, với số tiền lớn. Nhiều đối tượng đã bị bắt tạm giam để phục vụ điều tra, vụ việc đang tiếp tục được mở rộng.
Ngân hàng nội có tài sản 100 nghìn tỷ đồng trở lên mới được hoạt động trong Trung tâm tài chính quốc tế
Ngân hàng Nhà nước đề xuất, để thành lập ngân hàng thương mại trong Trung tâm tài chính quốc tế, ngân hàng 100% vốn trong nước phải có tổng tài sản tối thiểu 100 nghìn tỷ đồng; ngân hàng 100% vốn nước ngoài phải đạt ít nhất 10 tỷ USD; còn chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải sở hữu tổng tài sản tối thiểu 20 tỷ USD...
Giá bán vàng miếng SJC lần đầu tiên chạm mốc 125 triệu đồng mỗi lượng
Trong phiên 18/8, giá bán vàng miếng SJC thiết lập kỷ lục mới là 125 triệu đồng/lượng, trong khi một số đơn vị vẫn niêm yết giá bán ở mức 124,7 triệu đồng/lượng…
Hội nghị Jackson Hole: Chủ tịch Fed có thể khiến nhà đầu tư thất vọng
Phố Wall đang dự đoán gần như chắc chắn rằng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9, và bài phát biểu của Chủ tịch Fed Jerome Powell vào thứ Sáu tuần này - tại Jackson Hole - sẽ là cơ hội để ông hé lộ về định hướng chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương này trong thời gian tới...
Vàng tăng giá sáng đầu tuần, nhà đầu tư thận trọng trước sự kiện của Fed
Tuần này không có nhiều số liệu kinh tế Mỹ quan trọng được công bố, nhưng có hai sự kiện của Fed được giới đầu tư toàn cầu quan tâm...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: