Nợ xấu nội bảng năm 2022 của hệ thống ngân hàng có thể tăng lên 2%
Hoàng Lan
13/07/2022, 12:47
Những yếu tố rủi ro, bất định như đại dịch Covid-19 còn khó lường; địa chính trị phức tạp (nhất là chiến sự Nga-Ukraina); Trung Quốc tăng trưởng chậm lại; giá cả, lạm phát tăng; tăng lãi suất; rủi ro tài chính, an ninh năng lượng tăng; lợi nhuận biên của doanh nghiệp còn bị thu hẹp… là các yếu tố chính tác động đến nợ xấu tại Việt Nam năm 2022 và các năm tiếp theo...
Tiến sĩ Cấn Văn Lực/Ảnh: Chu Xuân Khoa.
Tại toạ đàm “Hoàn thiện pháp lý về nợ xấu sau khi Nghị quyết 42 kết thúc thí điểm” do Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy tổ chức, TS. Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia, dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022-2023 có thể đạt 2,9-3,2% (từ mức 6,1% năm 2021); lạm phát tăng mạnh (lên đến 6-6,2% từ 3,8% năm 2021); sau đó dịu dần khoảng 4% năm 2023 và 3% sau đó. Cùng với đó là những khó khăn, bất định do dịch bệnh và căng thẳng địa chính trị.
DỰ BÁO NỢ XẤU GỘP Ở MỨC 6%
“Tại Việt Nam, theo tính toán của Viện Đào tại Nghiên cứu BIDV, có 3 kịch bản tăng trưởng cho năm 2022. Ở kịch bản tích cực, tăng trưởng GDP có thể đạt 7,3-7,6% năm 2022 và 7-7,5% năm 2023. Theo kịch bản cơ sở, GDP tăng 6,8-7,1%. Trường hợp tiêu cực, GDP tăng 6-6,5%. CPI bình quân tăng lên mức 3,8-4,2%”, TS. Cấn Văn Lực nhận định.
Trước bối cảnh đó, nhóm nghiên cứu của TS. Cấn Văn Lực dự báo nợ xấu nội bảng năm 2022 sẽ được đẩy lên mức 2 % và nợ xấu gộp ở mức khoảng 6%.
Các chuyên gia tại toạ đàm/Ảnh: Chu Xuân Khoa.
“Mặc dù hiện nay nợ xấu nội bảng chỉ đang ở mức khoảng 1,4% nhưng tháng 6 vừa qua Thông tư 14 đã hết hiệu lực. Nếu như thông tư này không được gia hạn thì những khoản lẽ ra không phải chuyển nhóm nợ sẽ phải chuyển nhóm. Như vậy thì đương nhiên nợ xấu sẽ tăng”, vị chuyên gia giải thích.
Dự báo nợ xấu và bao nợ xấu năm 2022 của 29 ngân hàng thương mại/Nguồn: SBV, Viện Nghiên cứu, Đào tạo BIDV.
Cũng theo TS. Cấn Văn Lực, nợ xấu gộp sẽ giảm một chút bởi vì kinh tế chúng ta phục hồi tốt hơn kỳ vọng thì nợ xấu tiềm ẩn sẽ giảm đi tương ứng.
Trong bối cảnh kinh tế bất định, vẫn còn rất nhiều khó khăn trong thời gian sắp tới, Kinh tế trưởng của BIDV cho rằng: ““Nếu không luật hóa Nghị quyết 42 thì tạo ra khoảng trống rất lớn về pháp lý, gây khó khăn hơn nữa trong xử lý nợ xấu”.
SÁU LÝ DO CẦN LUẬT HOÁ NGHỊ QUYẾT 42
Tại toạ đàm, TS Cấn Văn Lực đã chỉ ra 6 lý do cần luật hóa Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Thứ nhất, Nghị quyết 42 đã phát huy hiệu quả rất tốt trong thời gian vừa qua. Nhờ thế mà nợ xấu giảm rõ rệt. Đặc biệt, nếu không có dịch Covid bùng phát năm 2020 và 2021 thì sứ mệnh đưa nợ xấu gộp xuống dưới 3 % đã hoàn thành cuối năm 2020.
Thứ hai, còn một số vướng mắc trong xử lý nợ xấu bộc lộ trong thời gian thực hiện Nghị quyết 42 thì chúng ta phải xử lí nốt trong thời gian được gia hạn. Sau đó, khi luật hóa xử lý nợ xấu thì phải lưu ý các vướng mắc đó để không lặp lại.
Thứ ba, nợ xấu là vấn đề liên tục. Làm nghề kinh doanh tiền tệ thì đó là rủi ro mà đã là rủi ro thì luôn luôn tiềm ẩn. Vì thế các ngân hàng nước ngoài thường chấp nhận tỷ lệ rủi do nợ xấu đâu đó khoảng 2 đến 3 %. Nợ xấu ư liên tục xảy ra chứ không phải chỉ xuất hiện trong thời kỳ kinh tế khó khăn. Như vậy, phải có một khung pháp lý cho nó chứ không để cho nó cộng dồn, tích tụ tạo nên những nguy cơ, những điểm tắc nghẽn cho kinh tế quốc gia.
Thứ tư, luật hoá Nghị quyết 42 là góp phần hoàn thiện thể chế, tăng tính hiệu lực, hiệu quả cho pháp luật. Hiện nay, quy mô nợ xấu tuyệt đối đã thay đổi rất lớn. Nếu không luật hóa xử lý nợ xấu mà lại quay trở về dùng những luật cũ ví dụ Luật dân sự, Luật doanh nghiệp thì sẽ dẫn đến việc lúng túng và chồng chéo.
Qua khảo sát kinh nghiệm quốc tế, Viện Nghiên cứu, đào tạo BIDV nhận thấy ở các nước họ không cần có luật riêng về xử lý nợ xấu nhưng luật pháp của họ rất mạnh; tính hiệu lực, hiệu quả rất rõ rệt. Trong khi đó, theo nhận định của TS. Cấn Văn Lực, hệ thống luật pháp của Việt Nam còn chồng chéo và tính hiệu lực, hiệu quả không cao. Chính vì vậy, Việt Nam cần xây dựng giải pháp đặc thù.
Cuối cùng, việc luật hoá Nghị quyết 42 sẽ góp phần khắc phục bất cập, tăng hiệu quả xử lý nợ xấu; qua đó, tăng nguồn lực và tiết giảm chi phí cho hệ thống tổ chức tín dụng, các bên liên quan và nền kinh tế.
Đối thoại chuyên đề: “Hoàn thiện pháp lý về nợ xấu sau khi Nghị quyết 42 kết thúc thí điểm”
Hoàn thiện pháp lý về nợ xấu sau khi Nghị quyết 42 kết thúc thí điểm
Đổi mới chế độ kế toán, tiệm cận chuẩn mực quốc tế
Cùng với những cải cách, sửa đổi liên quan đến luật và chế độ kế toán, việc áp dụng chuẩn mực quốc tế về kế toán (IFRS) và lộ trình xây dựng chuẩn mực Báo cáo tài chính Việt Nam (VFRS), ông Phạm Nam Phong, Phó Tổng Giám đốc Dịch vụ Kiểm toán và Đảm bảo, Deloitte Việt Nam, cho rằng việc thực hành và quản lý kế toán thời gian tới sẽ có những thay đổi căn bản.
Áp lực bủa vây ông Powell
Bài phát biểu của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell tại hội nghị ngân hàng trung ương thường niên của Fed ở Jackson Hole, Wyoming vào tháng 8 hàng năm luôn là một sự kiện quan trọng đối với thị trường tài chính toàn cầu...
Vàng giảm giá vì đồng USD giữ đà tăng, SPDR Gold Trust bán ròng
Trước thềm hội nghị thường niên của Fed, nhà đầu tư dường như trở nên thận trọng hơn, và sự thận trọng này được phản ánh qua việc họ giảm đặt cược vào khả năng Fed hạ lãi suất trong cuộc họp tháng 9...
Ước tính 200.000 tỷ đồng gốc và lãi trái phiếu phi ngân hàng phải trả trong 1 năm tới, chủ yếu bất động sản
Từ nay đến giữa năm 2026, nhóm phi ngân hàng phải trả 184.000 tỷ, chưa bao gồm lãi trái phiếu 6 tháng đầu năm 2026. Ước tính cả con số này vào thì số tiền phải thanh toán nhóm phi ngân hàng khoảng 200.000 tỷ.
7 tháng đầu năm: 75% giá trị trái phiếu doanh nghiệp thuộc về ngân hàng
Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong tháng 7/2024 chỉ đạt xấp xỉ 30.000 tỷ đồng, giảm gần 66% so với tháng 6/2025. Tính chung 7 tháng đầu năm, 75% giá trị trái phiếu thuộc về ngân hàng, 15% là bất động sản...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: