Dịch vụ và xuất, nhập khẩu dịch vụ: Kết quả và vấn đề đặt ra
Phương Nam
28/02/2023, 10:00
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập, nhận thức vai trò của dịch vụ và xuất, nhập khẩu dịch vụ đã rõ hơn, quan tâm hơn… Các ngành dịch vụ thu hút ngày càng nhiều lao động, tạo nhiều việc làm, góp phần quan trọng nâng cao đời sống nhân dân và đem lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh tế...
Trong 105 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có số liệu so sánh, có tới 78 nước và vùng lãnh thổ có tỷ trọng dịch vụ/GDP chiếm trên 50%, trong đó hầu hết là những nước phát triển, thu nhập cao. Điều đó chứng tỏ vai trò của dịch vụ đối với sự phát triển của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam rất quan trọng.
NHÓM NGÀNH DỊCH VỤ PHÁT TRIỂN HƠN, NHƯNG TỶ TRỌNG CÒN THẤP
Ngày nay, với nhận thức mới về vai trò của dịch vụ, nhóm ngành dịch vụ của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Nhóm ngành dịch vụ góp phần giải quyết công ăn việc làm khi tỷ trọng lao động của nhóm ngành dịch vụ trong tổng số lao động đã tăng lên so với trước đây (biểu đồ 1).
Tỷ trọng lao động nhóm ngành dịch vụ ngày càng có nhịp độ tăng nhanh hơn, bắt đầu từ năm 2015 đã chiếm 1/3 tổng số lao động và năm 2019 tới nay nhóm ngành này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 3 nhóm ngành. Đây không chỉ là vấn đề công ăn việc làm, mà còn góp phần nâng cao tính năng động của nền kinh tế và góp phần hình thành, phát triển thị trường lao động, tăng tính thị trường của kinh tế Việt Nam; không chỉ đối với kinh tế thực, mà cả kinh tế dịch vụ, không chỉ kinh tế mà cả một số lĩnh vực xã hội khác.
Trong các ngành cụ thể của nhóm ngành dịch vụ, ngành có số lao động đông nhất là thương mại (bán buôn, bán lẻ,…), tiếp đến là dịch vụ lưu trú, ăn uống, giáo dục - đào tạo, vận tải kho bãi, hoạt động của Đảng, tổ chức xã hội, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc, hoạt động dịch vụ khác, y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ, hoạt động chuyên môn và khoa học công nghệ, kinh doanh bất động sản, nghệ thuật, vui chơi, giải trí, hoạt động làm thuê, dịch vụ tự tiêu dùng, hoạt động của các tổ chức, cơ quan quốc tế.
Tỷ trọng vốn đầu tư cho nhóm ngành dịch vụ có xu hướng cao lên qua các năm (biểu đồ 2).
Từ năm 2015, tỷ trọng vốn đầu tư cho nhóm ngành dịch vụ đã vượt lên lớn nhất trong 3 nhóm ngành và từ năm 2018, tỷ trọng vốn vào nhóm ngành này lớn hơn tổng của cả 2 nhóm ngành còn lại.
Trong nhóm ngành dịch vụ, lượng vốn lớn nhất là Hoạt động dịch vụ khác, tiếp đến là vận tải, kho bãi, thương mại, kinh doanh bất động sản,…
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong khu vực doanh nghiệp, năm 2020, nhóm ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao hơn 2 nhóm ngành còn lại về số doanh nghiệp (66,7%), vốn sản xuất kinh doanh (66%), giá trị TSCĐ và đầu tư tài chính dài hạn (53,7%), đồng thời chiếm tỷ trọng cao về các chỉ tiêu còn lại (doanh thu thuần: 49,3%, lợi nhuận trước thuế: 41,8%, thu nhập của người lao động: 38,9% và số lao động: 37,1%) .
Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP đã có xu hướng cao lên, đạt đỉnh vào 5 năm trước đại dịch (năm 2015: 42,19%, 2016: 42,85%, 2017: 42,58%, 2018: 42,17%. 2019: 42,47%), chỉ bị giảm xuống vào 2 năm đại dịch xảy ra và bùng phát (năm 2019: 41,83%, 2021: 41,21%), trong đó có nhiều ngành cụ thể còn giảm nhiều hơn, như vận tải kho bãi, dịch vụ lưu trú, ăn uống,… Tỷ trọng dịch vụ trong GDP đã hồi phục trở lại vào năm 2022 (đạt 41,33%), trong đó có một số ngành cụ thể phục hồi nhanh hơn, như thương mại, vận tải kho bãi, dịch vụ lưu trú ăn uống, nghệ thuật vui chơi giải trí,…
Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP tăng chủ yếu do tốc độ tăng GDP nhóm ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng chung. Cụ thể, các năm 2015, 2016, 2017, 2019 nhóm ngành dịch vụ tăng tương ứng: 7,05%, 7,46%, 7,12%, 8,08%. Khi đại dịch lan tới và bùng phát, nhóm ngành này đã tăng chậm lại ở mức thấp nhất trong 3 nhóm ngành (năm 2020: 2,01%, 2021: 1,57%). Đến năm 2022, khi đại dịch đã được kiểm soát, nhóm ngành dịch vụ tăng cao nhất trong 3 nhóm ngành (đạt 9,99%), trong đó những ngành cụ thể tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nhóm ngành là: dịch vụ lưu trú, ăn uống, hoạt động hành chính, dịch vụ hỗ trợ, hoạt động dịch vụ khác, dịch vụ vui chơi giải trí, vận tải kho bãi,…
Tuy đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng nhóm ngành dịch vụ cũng còn những hạn chế và đứng trước không ít thách thức. Hạn chế rõ nhất là tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP của Việt Nam thuộc loại thấp so với khu vực, châu Á và thế giới.
Trong khu vực Đông Nam Á, năm 2020, tỷ trọng dịch vụ trong GDP của Việt Nam thấp thứ 7 trong 11 nước, Việt Nam chỉ đứng ngang với Myanmar, đứng trên Brunei (41,5%), Lào (40,7%), Campuchia (36,6%) (biểu đồ 3).
Ở Châu Á, tỷ trọng dịch vụ trong GDP của Việt Nam đứng thứ 27/35 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh ngoài 6 nước Đông Nam Á, còn thấp hơn Trung Quốc, Hồng Kông (TQ), Nhật Bản, Hàn Quốc, Arcmenia, Azerbaijan, Jordan, Kawait, Libani, Oman, Palestin, Ả Rập Xê út, Thổ Nhĩ Kỳ, Kazakhstan, Afganistan, Banglades, Ấn Độ, Iran, Nepan, Pakistan, Xrilanca.
Trên thế giới, tỷ trọng dịch vụ/GDP của Việt Nam đứng thứ 94/105 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh, ngoài 27 nước châu Á, còn có hầu hết các nước châu Âu, châu Úc, châu Mỹ và nhiều nước châu Phi.
Tỷ trọng dịch vụ/GDP của Việt Nam thấp so với nhiều nước do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do: (i) Việt Nam chuyển sang hoặc thực hiện cơ chế thị trường chậm hơn nhiều nước; (ii) tính chuyên nghiệp của dịch vụ đối với nhiều hoạt động còn thấp, còn dựa vào tự sản tự tiêu, còn do các cơ quan, đơn vị kiêm nhiệm nhiều hoạt động dịch vụ (đội xe, làm vệ sinh, bảo vệ,…); (iii) tỷ lệ lao động phi chính thức của nhóm ngành dịch vụ tuy có giảm xuống (năm 2017 là 64,5%, năm 2018 còn 62,9%, năm 2019 còn 61,7%), nhưng đều lớn hơn ở các nhóm ngành còn lại. Lao động phi chính thức không có bảo hiểm xã hội bắt buộc, công việc không ổn định, thu nhập cao thấp rất khác nhau và không ổn định, khó thống kê chính xác…
Quý vị độc giả có thể đặt mua ấn phẩm Kinh tế 2022-2023: Việt Nam và Thế giới tại đây.
Thủ tướng chỉ đạo nhanh chóng khắc phục hậu quả bão số 5 và mưa lũ, khôi phục sản xuất, kinh doanh
Ngày 26 tháng 8 năm 2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký ban hành Công điện số 148/CĐ-TTg, chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương khẩn trương khắc phục hậu quả do bão số 5 và mưa lũ gây ra.
Phát hành đặc biệt bộ tem “Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”
Bộ tem không chỉ thể hiện dấu mốc lịch sử trọng đại, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là lời khẳng định về chủ quyền, tự do, độc lập, tinh thần đoàn kết, ý chí bất khuất và niềm tự hào dân tộc Việt Nam trong suốt 80 năm qua...
Bộ Tư pháp thẩm định Luật Quản lý nợ công (sửa đổi)
Dự thảo luật chỉnh lý 22 điều; có 17 điều được sửa đổi, 5 điều bãi bỏ và 5 điều bổ sung mới, với trọng tâm tăng cường phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục và hoàn thiện cơ chế quản lý nợ...
Dự án Luật Chuyển đổi số nhằm tạo nền tảng pháp lý liên ngành
Dự thảo nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật để số hóa quốc gia, tạo nền tảng pháp lý liên ngành về chuyển đổi số trong ngành, lĩnh vực: số hóa, kết nối thế giới thực và thế giới số; hạ tầng cho chuyển đổi số...
16 năm có mặt tại Việt Nam, Samsung đã sản xuất được 2 tỷ chiếc điện thoại
Đến cuối tháng 6/2025, các nhà máy điện thoại di động tại Bắc Ninh và Thái Nguyên của Samsung đã đạt mốc sản xuất 2 tỷ chiếc điện thoại di động sau 16 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất vào tháng 4 năm 2009…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: