Có hai vấn đề chính đặt ra: tại sao phải giải cứu và giải cứu như thế nào? Câu hỏi này xuất phát từ hiện trạng đường sắt...
Ảnh minh hoạ
Hiện trạng đường sắt được thể hiện ở tốc độ tăng của số khách luân chuyển (người.km) và tốc độ tăng của lượng hàng hóa luân chuyển (tấn.km) trong 10 năm gần đây.
Biểu đồ 1. Tốc độ tăng khách luân chuyển (%)
Trong 10 năm, chỉ có 5 năm tăng, 5 năm giảm sâu, nên tính chung giảm khá lớn, ngược chiều so với tốc độ tăng chung của toàn bộ ngành vận tải (giảm 10,1%/năm so với tăng 5,2%/năm). trong khi các ngành vận tải khác tăng, đường bộ tăng 6%/năm, hàng không tăng 4,9%/năm, đường thủy tăng 1,5%/năm.
Trong 4 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển khách của ngành đường sắt còn giảm sâu hơn, giảm 44,5% so với chung giảm 5,8%. Đồng thời, ngược chiều so với tốc độ tăng của ngành đường thủy nội địa tăng 10,9%, ngành đường biển tăng 12,4%, ngành đường bộ 3,1% và giảm sâu hơn cả ngành vận tải hàng không giảm 30,4%.
TẠI SAO PHẢI GIẢI CỨU?
Do tốc độ giảm sâu như trên, nên tỷ trọng số khách luân chuyển của ngành đường sắt trong tổng số khách luân chuyển của toàn ngành vận tải năm 2020 đã giảm so với năm 2010, ngày một thấp xa so với tỷ trọng tương ứng của các ngành vận tải khác.
Biểu đồ 2. Cơ cấu tổng số khách luân chuyển (%)
Năm 2020 so với năm 2010, chỉ có tỷ trọng đường bộ tăng, còn các ngành vận tải khác đều giảm, chủ yếu do tác động của đại dịch Covid-19, trong đó tỷ trọng của ngành đường sắt giảm còn ở mức thấp và thấp xa hơn các ngành vận tải khác. Trong 4 tháng đầu năm 2021, tỷ trọng ngành vận tải đường sắt còn xuống thấp hơn nữa ở mức 0,73% và thấp xa so với tỷ trọng của các ngành vận tải khác.
Đối với luân chuyển hàng hóa, ngành vận tải đường sắt cũng trong tình trạng giảm như luân chuyển hành khách, tuy mức độ giảm có ít hơn. Cụ thể, tốc độ tăng bình quân năm về luân chuyển hàng hóa trong thời kỳ 2011-2020 của ngành đường sắt giảm 0,36%, trong khi của toàn ngành vận tải tăng 4,54%, của đường biển tăng 1,7%, của đường sông là 8,08%, của đường bộ là 9,64%, của đường hàng không là 23,64%.
Không chỉ sản lượng, mà còn nhiều chỉ tiêu khác của ngành đường sắt cũng rất đáng quan ngại. Bộ máy cồng kềnh với 26 nghìn lao động. Năm 2019 doanh thu chỉ hơn 4.500 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 17 tỷ đồng,... Năm 2020 lỗ 1.324 tỷ đồng/vốn chủ sở hữu chỉ có 3.250 tỷ đồng.
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI CỨU
Sự sụt giảm tốc độ, tỷ trọng về luân chuyển hành khách, về luân chuyển hàng hóa của ngành đường sắt do nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố chủ yếu đáng quan tâm.
Có yếu tố quan trọng là cơ sở vật chất - kỹ thuật đường sắt quá lạc hậu. Trước hết là đường bị lạc hậu tới hàng trăm năm. Khổ đường sắt 1m của Việt Nam duy trì quá lâu, có lẽ không còn nước nào trên thế giới duy trì khổ đường này, họ đã đưa lên khổ 1,435m từ khá lâu rồi. Khổ đã nhỏ, lại là đơn, chưa có đường lồng; chưa nói đến đường đôi; nhiều đường dân sinh cắt ngang, đường vòng cua hẹp,...; có nhiều ray hỏng, mòn vẹt, tà vẹt “năm cha ba mẹ” nên xóc, lắc, ồn.
Tiếp đến là đầu tàu. Đầu tàu tuy đã chuyển từ chạy than, nền tảng công nghệ thứ nhất sang diezen, công nghệ thứ hai. Trong khi nhiều nước đã chuyển sang chạy điện, thuộc công nghệ thứ ba, một số nước đã chuyển sang tàu điện từ tốc độ cao, công nghệ thứ tư. Một số nước đang tiến tới tàu ống hyperloop, công nghệ thứ năm...
Đường tàu, đầu tàu như vậy và nhiều yếu tố khác đã làm cho tốc độ chạy tàu thường chậm. Đối với vận tải hàng hóa, giá cả theo tấn được coi là rẻ, nhưng do chưa được kết nối chặt chẽ, thuận lợi với các kho, các cảng, các doanh nghiệp có khối lượng vận tải lớn, nên chưa khai thác hết tiềm năng của đường sắt.
Một yếu tố quan trọng là vốn đầu tư và cơ chế quản lý đối với ngành đường sắt. Theo Bộ Giao thông vận tải, với tổng vốn đầu tư trong thời kỳ 2016-2020 có 429.338 tỷ đồng, thì cơ cấu đầu tư cho các ngành vận tải cụ thể như sau.
Biểu đồ 3. Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành vận tải 2016-2020 (%)
Đó là vốn đầu tư nhà nước. Nếu tính cả các nguồn khác thì tỷ trọng của ngành đường sắt còn ít hơn nữa. Riêng lượng vốn sự nghiệp kinh tế hàng năm dành cho công tác bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt thì số thực cấp thấp khá xa so với nhu cầu bảo trì. Năm 2015 đạt 38,1%, năm 2016 đạt 36,4%, năm 2017 đạt 36%, năm 2018 đạt 35,8%, năm 2019 đạt 40,1%, năm 2020 đạt 38,1%, bình quân 2015-2020 chỉ đạt 34,5%.
Trong cơ chế thị trường, cơ chế quản lý đối với ngành đường sắt còn có những hạn chế bất cập, tập trung ở hai điểm chủ yếu. Đó là, cơ chế quản lý tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt; vận dụng Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công - tư để thu hút nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế.
Một yếu tố quan trọng là nhu cầu của hành khách, khách hàng đã khác trước, trong khi các ngành vận tải khác trong quá trình cạnh tranh đã đáp ứng tốt hơn.
Giải cứu ngành đường sắt thông qua việc tác động vào các yếu tố trên, trong đó, quan trọng nhất là đổi mới cơ chế quản lý đối với ngành đường sắt.
Cơ chế quản lý tài sản thuộc kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia có thể giao cho Tổng công ty Đường sắt Việt Nam trực tiếp quản lý, sử dụng, khai thác theo hai hình thức. Một là, phần tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia do Nhà nước đầu tư, gồm toàn bộ nhà ga, kho hàng, bãi hàng, nhà cung cầu, cung đường... giao cho Tổng công ty Đường sắt Việt Nam theo hình thức đầu tư vốn đầu tư nhà nước tại doanh nghiệp. Hai là, phần tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia do Nhà nước đầu tư còn lại như cầu, hầm, hệ thống đường ray, hệ thống thông tin tín hiệu... giao Tổng công ty Đường sắt Việt Nam quản lý không tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Việc đổi mới cơ chế như trên có hai tác động. Một mặt, vừa tạo sức ép, vừa tạo điều kiện cho Tổng công ty Đường sắt Việt Nam - một loại hình doanh nghiệp trong cơ chế thị trường - có trách nhiệm và quyền chủ động trong việc quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Mặt khác, có thể thu hút nguồn lực thông qua việc liên kết, kết nối với các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực đường cao tốc, hàng hải, hàng không... để đầu tư các trung tâm logistics đa lĩnh vực; thông qua việc liên kết liên doanh thu hút nguồn vốn của các thành phần kinh tế.
Về lâu dài vẫn phải có quy hoạch để lựa chọn công nghệ phù hợp cho tuyến đường sắt Bắc-Nam thứ hai.
Thủ tướng hỏa tốc chỉ đạo giao thực hiện vốn bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt năm 2021
Vực dậy đường sắt Việt Nam: Nâng cấp hệ thống cũ hay làm cao tốc mới?
Tới bước đường cùng, ngành đường sắt cầu cứu Thủ tướng
Hải Phòng “bắt mạch” giải ngân vốn đầu tư công chậm hơn mục tiêu
Ước tính đến hết tháng 8/2025, giá trị giải ngân vốn đầu tư công của Hải Phòng đạt 19.219 tỷ đồng, bằng 53,1% kế hoạch Thủ tướng giao…
Bộ Xây dựng ra công điện yêu cầu chủ động ứng phó bão số 5
Trước diễn biến phức tạp của cơn bão số 5, Bộ Xây dựng yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan chủ động triển khai các biện pháp ứng phó nhằm đảm bảo an toàn cho người dân và tài sản...
Giải pháp giúp doanh nghiệp tư nhân phát triển
Cơ hội từ việc sáp nhập các đơn vị hành chính tạo thành các siêu đô thị, áp lực từ chính sách thuế đối ứng của chính quyền Trump, vai trò của khoa học công nghệ và nhu cầu cấp thiết về một tinh thần liên kết thực chất là bốn chủ đề quan trọng được nêu ra tại Vòng đối thoại địa phương cụm Đông Nam Bộ thuộc Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025 (VPSF 2025) diễn ra ngày 22/8 tại TP.HCM…
Đà Nẵng lập Hội đồng tư vấn, sẵn sàng vận hành Trung tâm tài chính quốc tế
Ủy ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng vừa công bố quyết định thành lập Hội đồng Tư vấn Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng.
TP.HCM thành lập tổ công tác tháo gỡ vướng mắc “siêu dự án” chống ngập
Tổ công tác tháo gỡ vướng mắc dự án giải quyết ngập do triều cường khu vực TP.HCM có xét tới yếu tố biến đổi khí hậu, giai đoạn 1 (thường gọi là dự án chống ngập 10.000 tỷ đồng) gồm 9 thành viên, do Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP.HCM Bùi Xuân Cường làm tổ trưởng...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: