Giải pháp tăng cường kết nối doanh nghiệp FDI và nội địa
Tùng Thư
05/05/2025, 11:01
Liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước từ lâu đã được xem là một trong những yếu tố then chốt để Việt Nam tận dụng hiệu quả việc thu hút đầu tư, qua đó, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, sau hàng chục năm FDI có mặt tại Việt Nam, mối liên kết này vẫn lỏng lẻo, thiếu chiều sâu và chưa phát huy được vai trò lan tỏa như kỳ vọng...
Tại Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam 2025 (lần thứ 5) do VnEconomy tổ chức ngày 23/4/2025, các chuyên gia đã đề xuất nhiều giải pháp để tăng cường kết nối, chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.
“Từ góc nhìn của các doanh nghiệp châu Âu, trong tương quan so sánh với các quốc gia trong khu vực, Việt Nam hội tụ đồng thời các lợi thế lớn. Đó là vị trí địa lý chiến lược; mức độ hội nhập cao thể hiện qua mạng lưới các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết; chính sách ngoại giao linh hoạt, chủ động; cùng với nền tảng văn hóa đặc trưng và nguồn nhân lực chất lượng”, ông Nguyễn Hải Minh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham Việt Nam), khẳng định.
Nhờ những lợi thế đó, các kết quả khảo sát về niềm tin kinh doanh của doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam đều ghi nhận phần lớn (khoảng 70%) lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng Việt Nam là một trong những điểm đến đầu tư hấp dẫn hàng đầu trên thế giới.
Các doanh nghiệp châu Âu đánh giá Việt Nam đã trở thành trung tâm của nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sản xuất, chế biến, chế tạo và phân phối trong khu vực.
NỚI LỎNG QUY ĐỊNH VỀ GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG VÀ THỊ THỰC
Theo đại diện EuroCham Việt Nam, hiện nay, các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư châu Âu, đang có nhu cầu rất lớn trong việc sử dụng Việt Nam như một trung tâm trung chuyển về logistics và kho bãi. Tuy nhiên, mô hình trung chuyển hiện đại không chỉ dừng lại ở việc thuê kho hàng, mà còn đi kèm nhiều dịch vụ giá trị gia tăng như bảo hành, bảo trì, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực hiện có khả năng đáp ứng toàn diện những yêu cầu đó, bởi Singapore đang gặp khó khăn về mở rộng quy mô.
Để làm được điều đó, Việt Nam phải nhanh chóng cải thiện thể chế, khung khổ pháp lý và chính sách thương mại. “Chúng ta cần một hệ thống luật minh bạch, linh hoạt hơn, trao nhiều quyền lợi và sự chủ động hơn cho nhà đầu tư,” ông Nguyễn Hải Minh nhấn mạnh.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư ngày càng gay gắt, đầu tiên phải thu hút được những nhà đầu tư chất lượng đến Việt Nam và giữ họ thật lâu bằng môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, ổn định.
Nhiều ý kiến cho rằng yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy mối liên kết FDI và doanh nghiệp nội địa là chuyển giao kinh nghiệm và tri thức. Tuy nhiên, để làm được điều này, rất cần sự hỗ trợ từ Nhà nước, đặc biệt là việc nới lỏng các quy định liên quan đến giấy phép lao động và thị thực dành cho chuyên gia, người lao động chất lượng cao. Nếu những rào cản này được tháo gỡ, việc gắn kết giữa khu vực doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn.
Ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, đồng tình với việc phân loại một số nhóm nhà đầu tư nước ngoài, từ đó Việt Nam xác định rõ muốn thu hút loại hình nhà đầu tư nào rồi xây dựng chính sách tương ứng. Chính sách này bao gồm thu hút đầu tư và tăng cường kết nối giữa khu vực FDI với các doanh nghiệp nội địa.
CẤP BÁCH NÂNG CAO NĂNG LỰC CHO DOANH NGHIỆP NỘI ĐỊA
Nhóm doanh nghiệp FDI đầu tiên đáng chú ý là những doanh nghiệp hướng đến xuất khẩu. Đây là các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn đặt cơ sở sản xuất tại Việt Nam, song mục tiêu chính không phải phục vụ thị trường trong nước mà chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc tế.
Đa phần các doanh nghiệp này hoạt động như một khâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu, tận dụng lợi thế của Việt Nam về lao động có chi phí cạnh tranh, chất lượng ngày càng cải thiện, cùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và logistics đang dần được hoàn thiện. Ngoài ra, mạng lưới các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết cũng là yếu tố quan trọng giúp hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan, qua đó gia tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, các tập đoàn đa quốc gia này thường đã xây dựng hệ sinh thái chuỗi cung ứng toàn cầu từ trước. Khi đầu tư vào Việt Nam, họ tiếp tục sử dụng mạng lưới sẵn có hoặc những nhà cung ứng quen thuộc, thay vì tích cực tìm kiếm đối tác từ doanh nghiệp trong nước.
Để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nội địa phải đáp ứng được hàng loạt yêu cầu khắt khe, không chỉ về chất lượng sản phẩm và tiến độ giao hàng mà còn về trình độ công nghệ, năng lực quản trị, quy trình kiểm soát chất lượng. Quan trọng hơn là việc đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về phát triển bền vững như ESG (môi trường – xã hội – quản trị doanh nghiệp). Đây là xu hướng tất yếu trong toàn cầu hóa, đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn kết nối sâu hơn với khối FDI phải chủ động nâng cao năng lực và chuẩn hóa hoạt động theo chuẩn mực quốc tế.
Nhóm thứ hai là các nhà đầu tư muốn khai thác thị trường nội địa. Họ đặt ra yêu cầu rằng sản phẩm sản xuất tại Việt Nam có thể được tiêu thụ trong nước. Với nhóm này, yếu tố thị trường là điểm then chốt.
Nhóm thứ ba liên quan đến các lĩnh vực dịch vụ cao cấp, giá trị gia tăng cao, họ sẽ đầu tư lâu dài và gắn bó với hệ sinh thái địa phương.
Ông Cương cho rằng đây là nhóm nhà đầu tư hướng tới sự phát triển bền vững, đòi hỏi Việt Nam phải có chiến lược nâng cấp hạ tầng, năng lực quản trị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
“Khi hiểu rõ bản chất của từng loại dự án FDI, chúng ta sẽ có cơ sở để thiết kế chính sách phù hợp, từ đó tối ưu hóa đóng góp của FDI vào nền kinh tế”, ông Cương cho biết.
Theo ông Cương, vai trò của Nhà nước cần được phát huy rõ rệt trong việc xây dựng cơ chế kết nối giữa hai khối doanh nghiệp. Vai trò này được thể hiện trước tiên ở việc định hướng chính sách thu hút đầu tư theo vùng, ngành, lĩnh vực có khả năng “kéo theo” sự phát triển của doanh nghiệp nội địa.
Một điểm đáng lưu ý khác là sự thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao – một yếu tố đang làm suy yếu khả năng tiếp nhận công nghệ và tri thức từ khu vực FDI. Các chuyên gia khuyến nghị cơ quan chức năng sớm có giải pháp để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm: đảm bảo cơ cấu dân số và quy mô dân số trong độ tuổi lao động; năng suất lao động cải thiện; phát triển lao động có tay nghề cao, lao động tinh hoa.
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 17 18-2025 phát hành ngày 28/4/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Hải Phòng “bắt mạch” giải ngân vốn đầu tư công chậm hơn mục tiêu
Ước tính đến hết tháng 8/2025, giá trị giải ngân vốn đầu tư công của Hải Phòng đạt 19.219 tỷ đồng, bằng 53,1% kế hoạch Thủ tướng giao…
Bộ Xây dựng ra công điện yêu cầu chủ động ứng phó bão số 5
Trước diễn biến phức tạp của cơn bão số 5, Bộ Xây dựng yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan chủ động triển khai các biện pháp ứng phó nhằm đảm bảo an toàn cho người dân và tài sản...
Giải pháp giúp doanh nghiệp tư nhân phát triển
Cơ hội từ việc sáp nhập các đơn vị hành chính tạo thành các siêu đô thị, áp lực từ chính sách thuế đối ứng của chính quyền Trump, vai trò của khoa học công nghệ và nhu cầu cấp thiết về một tinh thần liên kết thực chất là bốn chủ đề quan trọng được nêu ra tại Vòng đối thoại địa phương cụm Đông Nam Bộ thuộc Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025 (VPSF 2025) diễn ra ngày 22/8 tại TP.HCM…
Đà Nẵng lập Hội đồng tư vấn, sẵn sàng vận hành Trung tâm tài chính quốc tế
Ủy ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng vừa công bố quyết định thành lập Hội đồng Tư vấn Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng.
TP.HCM thành lập tổ công tác tháo gỡ vướng mắc “siêu dự án” chống ngập
Tổ công tác tháo gỡ vướng mắc dự án giải quyết ngập do triều cường khu vực TP.HCM có xét tới yếu tố biến đổi khí hậu, giai đoạn 1 (thường gọi là dự án chống ngập 10.000 tỷ đồng) gồm 9 thành viên, do Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP.HCM Bùi Xuân Cường làm tổ trưởng...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: