JICA hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực bảo trì đường bộ
Ánh Tuyết
03/08/2023, 16:52
Trong bối cảnh kinh phí bảo trì 25.000km đường quốc lộ và hàng ngàn cây cầu hàng năm mới đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu thực tế, Cục Đường bộ Việt Nam đang nghiên cứu, xem xét những loại vật liệu mới, phương pháp bảo trì tối ưu, giảm chi phí tính trên cả vòng đời...
Chuyên gia tại Nhật Bản đưa ra công nghệ quản lý, bảo trì đường bộ mới, giúp Việt Nam tăng cường năng lực bảo trì đường bộ.
Ngày 3/8 tại Hà Nội, Cục Đường bộ Việt Nam, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) và Công ty TNHH Tokyo Belt đồng tổ chức hội thảo kỹ thuật về quản lý và bảo trì cầu, đường bộ.
KINH PHÍ BẢO TRÌ CHỈ ĐÁP ỨNG 30% NHU CẦU, CÔNG NGHỆ CŨNG THIẾU THỐN
Đây là hoạt động thuộc dự án “Khảo sát xây dựng mô hình kinh doanh với mục tiêu phát triển bền vững cho khối doanh nghiệp tư nhân để phổ biến các phương pháp sửa chữa mặt đường có độ bền cao, sử dụng hỗn hợp gia nhiệt đàn hồi chất lượng cao tại Việt Nam” được JICA và Công ty Tokyo Belt (trụ sở tại Tokyo) triển khai từ tháng 7/2022. Khảo sát nằm trong khuôn khổ chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục tiêu phát triển bền vững của JICA.
Chia sẻ tại hội thảo, ông Nguyễn Mạnh Thắng, Phó Cục trưởng Cục Đường bộ Việt Nam cho biết tại Việt Nam, bên cạnh việc đầu tư mới vào các cơ sở hạ tầng giao thông, việc quản lý, bảo trì cầu, đường trong phạm vi ngân sách hạn chế cũng vô cùng quan trọng.
Lãnh đạo Cục Đường bộ Việt Nam cho biết kinh phí ngân sách nhà nước cấp hàng năm cho việc bảo trì khoảng 12.000 tỷ đồng, bao gồm bảo trì cả đường và cầu là chưa đủ. Hiện Cục Đường bộ Việt Nam đang quản lý khoảng 25.000km đường quốc lộ và 7.725 cầu, theo tính toán nhu cầu thực tế đã báo cáo Bộ Giao thông vận tải tại Tờ trình số 63/TTF-CĐBVN ngày 30/5/2023, kinh phí bảo trì năm 2024 cần tới 40.800 tỷ đồng.
Như vậy, "kinh phí bảo trì hàng năm mới đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu thực tế", lãnh đạo Cục Đường bộ Việt Nam đánh giá.
Ông Nguyễn Mạnh Thắng, Phó Cục trưởng Cục Đường bộ Việt Nam chia sẻ tại hội thảo.
Bên cạnh thiếu thốn về kinh phí kể trên, công tác bảo trì cũng thiếu về công nghệ. Hiện nay có nhiều công trình cầu xây dựng với khẩu độ nhịp lớn, trụ cao, áp dụng các công nghệ tiên tiến trên thế giới, do đó, đòi hỏi công tác bảo trì phải sử dụng các thiết bị máy móc chuyên dụng tiên tiến để có thể kiểm tra, phát hiện kịp thời các hư hỏng công trình cầu để kịp thời sửa chữa, khắc phục.
Chẳng hạn, cầu Cửa Hội ở Nghệ An có trụ cầu cao khoảng 40 — 50m so với mặt nước, do đó, cần phải có xe kiểm tra chuyên dụng có cần vươn để đưa người xuống gầm cầu để kiểm tra đầm, gối cầu và các bộ phận khác của công trình. Đối với các cầu dây văng, cần có thiết bị chuyên dụng để phát hiện các bất thường đối với cáp dây văng...
Do yêu cầu về an toàn công trình cầu đòi hỏi rất cao, nên khi xảy ra các hư hỏng, sự cố công trình cầu, cần được phân tích, đánh giá nguyên nhân, để đưa ra các giải pháp khắc phục phù hợp, kịp thời, nhằm đảm bảo an toàn giao thông và an toàn công trình.
Về vấn đề này, "cần máy móc thiết bị chuyên dụng để kiểm tra, phát hiện các hư hỏng và các ý kiến chuyên gia trong việc kiểm tra, đặt vấn đề và xử lý các hư hỏng một cách triệt để, tiết kiệm và hiệu quả. Tương tự như một bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo cần bác sĩ giỏi để chẩn đoán đúng bệnh, từ đó, đưa ra phác đồ điều trị phù hợp", ông Thắng ví von.
Đối với các hư hỏng cầu càng phức tạp càng đòi hỏi chuyên gia có kinh nghiệm chuyên sâu hơn. Chẳng hạn, việc sửa chữa mặt cầu Thăng Long khá phức tạp, yêu cầu đặt ra là tìm đúng nguyên nhân gây ra hư hỏng và lựa chọn giải pháp sửa chữa phù hợp, đảm bảo bền vững công trình.
Ngoài ra, thông tin tại hội thảo cho thấy hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề xuống cấp sớm của cầu và đường bộ do lưu lượng giao thông đông đúc, nhiệt độ cao, lượng mưa lớn...
Trong bối cảnh ngân sách để quản lý và bảo trì cầu, đường bộ còn hạn chế dẫn đến các đơn vị sử dụng một số loại vật liệu và phương pháp thi công có giá thành thấp. Điều này khiến chất lượng không được đảm bảo, việc sửa chữa cầu, đường bộ thường xuyên phải tiến hành, dẫn đến chi phí vòng đời cao.
VƯỢT TRỘI TỪ CÔNG NGHỆ, VẬT LIỆU MỚI
Để giải quyết khó khăn về kinh phí, Cục Đường bộ Việt Nam phải lựa chọn, ưu tiên sửa chữa những đoạn tuyến, những công trình cầu nằm trên tuyến huyết mạch, lưu lượng xe lớn như Quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh bị hư hỏng gây mất an toàn giao thông để thực hiện sửa chữa trước, những đoạn tuyến khác lưu lượng xe thấp, còn khai thác được sẽ thực hiện sửa chữa sau.
"Để khắc phục khó khăn về công nghệ (máy móc, thiết bị), Cục Đường bộ Việt Nam chỉ đạo các đơn vị tăng cường hợp tác với các tổ chức, các công ty lớn, uy tín trên thế giới để mua máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác bảo trì cầu", ông Nguyễn Mạnh Thắng cho biết.
Đối với các công trình cầu xây ra hư hỏng, sự cố phức tạp, đơn vị tổ chức các cuộc họp, hội thảo mời các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực cầu ở các trường đại học, các viện nghiên cứu trong và ngoài nước, lấy ý kiến đóng góp để lựa chọn phương án sửa chữa tối ưu.
"Đối với những trường hợp cần xử lý gấp, có thể mời các chuyên gia kiểm tra hiện trường, nghiên cứu hồ sơ để tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp sửa chữa kịp thời, đảm bảo tiến độ dự án", ông Thắng thông tin.
Một trong các mục tiêu phát triển bền vững cụ thể của Việt Nam đến năm 2030 là xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, chất lượng, đáng tin cậy, có khả năng chống chịu và bền vững.
Theo đó, Chính phủ Việt Nam hiện khuyến khích các hoạt động tập trung vào công tác quản lý và bảo trì, áp dụng công nghệ tiên tiến, sử dụng hiệu quả và phát triển bền vững cơ sở hạ tầng giao thông. Mặt khác, hệ thống chứng nhận công nghệ mới thông qua thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng đang được xây dựng và vận hành như một phương pháp để đưa công nghệ tiên tiến vào các công trình công cộng.
Toàn cảnh hội thảo kỹ thuật về quản lý và bảo trì cầu, đường bộ.
Tại hội thảo, về phía Nhật Bản, Công ty Tokyo Belt và Heatlock Industry giới thiệu phương pháp thi công khe co giãn không mối nối và sửa chữa đường vẫn đảm bảo khả năng thoát nước bằng Falcon (vật liệu sửa chữa đường) của Nhật Bản.
Công ty Tokyo Belt có bề dày lịch sử 77 năm và chuyên kinh doanh các linh kiện công nghiệp như dây đai, ống mềm và gia công các linh kiện nhựa. Từ năm 2012, công ty cũng bắt đầu hoạt động trong lĩnh vực sửa chữa mặt đường tại Nhật Bản và có doanh thu đạt khoảng 30 triệu yên/năm, chiếm 80% thị trường thi công khe co giãn không mối nối trong nước.
Chia sẻ về kinh nghiệm bảo trì cầu, đường bộ tối ưu tại Nhật Bản, ông Jun Maeda, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Công ty TNHH Tokyo Belt, khẳng định hợp chất gia nhiệt đàn hồi Falcon, phương pháp thi công khe co giãn không mối nối sử dụng vật liệu Falcon, ống thoát nước được làm bằng 100% nhựa tái chế PET của Công ty Kuraray đều là những sản phẩm đang được sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản.
"Việt Nam có khí hậu nắng nóng, tương đồng với khí hậu tại Okinawa, một tỉnh phía nam Nhật Bản. Những sản phẩm này đã được sử dụng tại Okinawa, bởi vậy, chúng tôi tin rằng những sản phẩm này có thể áp dụng được với điều kiện khí hậu của Việt Nam", ông Jun Maeda đánh giá.
Về tuổi thọ của khe co giãn không mối nối sử dụng vật liệu Falcon, điều này sẽ tùy thuộc vào tình trạng vận hành của từng con đường. Ở Nhật Bản, mốc tuổi thọ này thường là 10 năm, có nghĩa là cứ 10 năm mặt đường tại Nhật Bản sẽ lại được rải 1 lớp bê tông nhựa mới. Với khe co giãn không mối nối sử dụng vật liệu Falcon, việc rải lại lớp vật liệu Falcon trên bề mặt sẽ giúp khôi phục tất cả các tính năng vốn có của khe co giãn này. Tuổi thọ của khe co giãn không mối nối sử dụng vật liệu Falcon có thể kéo dài tới 30 năm, có độ bền cao và nhiều tính năng vượt trội.
Khi áp dụng vật liệu và công nghệ mới vào công tác bảo trì tại Việt Nam, các chuyên gia Nhật Bản cho rằng mặt đường và khe co giãn cầu sau khi được sửa chữa sẽ ổn định trong thời gian dài; giảm chi phí bảo trì, xét trên cơ sở chi phí vòng đời.
Bên cạnh đó, mặt đường bằng phẳng sẽ nâng cao tính an toàn cho xe chạy, tai nạn xe máy do đường trơn trượt sẽ giảm bớt; những ảnh hưởng môi trường như độ rung, tiếng ồn sẽ được giảm thiểu.
Chia sẻ tại hội thảo, đại diện JICA cho biết sẽ tiếp tục cùng với các bên liên quan phía Nhật Bản và Việt Nam hỗ trợ các công ty tư nhân nhằm đóng góp vào sự phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong tương lai và giải quyết các vấn đề xã hội khác tại Việt Nam.
Bộ Giao thông vận tải đề xuất giảm loạt lệ phí, trợ giá trực tiếp 1.000 USD cho người mua ô tô điện
Chính sách cần biết về giao thông đường bộ có hiệu lực từ 1/8/2023
Cục Đường bộ phấn đấu giải ngân đạt 52%, tập trung đẩy mạnh cấp đổi giấy phép lái xe trực tuyến
Đọc thêm
Tăng cường thêm 51 chuyến tàu trong dịp Quốc khánh 2/9
Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt sẽ tổ chức tăng cường thêm nhiều chuyến tàu nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong dịp lễ trọng đại này của đất nước...
Đến năm 2030, tỉnh Đắk Lắk có 3 bến cảng biển
Bộ Xây dựng vừa ban hành Quyết định số 1351/QĐ-BXD ngày 15/8/2025 phê duyệt điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển Phú Yên (trước đây) thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Tây Ninh khẳng định sức hút khi đón loạt dự án nghìn tỷ đồng
Sau khi sáp nhập, Tây Ninh hướng đến mục tiêu trở thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, logistics hiện đại của vùng. Mới đây, sức hút đầu tư của tỉnh được khẳng định qua loạt dự án có vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng…
Thanh Hoá nỗ lực rút ngắn thủ tục, thúc đẩy đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp
Nhờ áp dụng nhiều giải pháp tháo gỡ vướng mắc, tiến độ đầu tư hạ tầng và thu hút dự án thứ cấp tại các cụm công nghiệp ở Thanh Hoá đã có bước cải thiện, nhưng vẫn tồn tại không ít dự án triển khai chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.
Tỉnh cực Nam bứt phá hạ tầng, mở rộng cửa ngõ và "lá chắn" an ninh - quốc phòng
Với loạt dự án chiến lược về cao tốc, cảng biển, sân bay, tỉnh Cà Mau đang bứt phá hạ tầng, mở rộng cửa ngõ, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời khẳng định vị thế chiến lược về quốc phòng - an ninh và hội nhập quốc tế...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: