Nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông để nâng hạng năng lực logistics
Anh Tú
21/08/2023, 07:00
Dù tăng điểm rõ rệt góp phần cải thiện điểm số và vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng LPI những năm qua, nhưng chất lượng cơ sở hạ tầng vẫn còn nhiều điểm nghẽn, cản trở sự phát triển. Hiện nhiều dự án giao thông đang được triển khai với kỳ vọng nâng cao khả năng vận chuyển hàng hóa, nâng hạng năng lực logistics quốc gia...
Vận tải đường bộ vẫn là phương thức hoạt động chính, trong khi đó hạ tầng đường bộ đang bị quá tải, xuống cấp, các phương thức vận tải khác chưa phát triển.
Từ kết quả bảng xếp hạng chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) do Ngân hàng Thế giới công bố 16 năm qua cho thấy chỉ số LPI của Việt Nam có xu hướng tăng. Điều này thể hiện nỗ lực cải cách thể chế chính sách, môi trường kinh doanh cũng như đầu tư nâng cấp hạ tầng logistics, hạ tầng giao thông vận tải thời gian qua.
Trong công bố năm 2023, chỉ số LPI của Việt Nam tăng cao hơn lần công bố trước (3,27 điểm) và đạt 3,3 điểm, trong đó chất lượng cơ sở hạ tầng tăng điểm rõ rệt nhất. Tuy nhiên, Việt Nam lại tụt 4 hạng so với lần công bố LPI gần nhất vào năm 2018, với thứ hạng 43 trên tổng số 160 quốc gia.
HẠ TẦNG GIAO THÔNG VẪN LÀ LỰC CẢN
Theo ước tính, chi phí dịch vụ logistics của Việt Nam khoảng 20% GDP, vẫn cao hơn nhiều so với các nước phát triển như Mỹ và cao hơn các nước đang phát triển như Trung Quốc hay Thái Lan khiến hàng Việt giảm sức cạnh tranh.
Chia sẻ gần đây, lãnh đạo Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn chỉ rõ những lực cản phát triển logistics tại Việt Nam. Lực cản đầu tiênlà vấn đề quy hoạch, cơ sở hạ tầng và hạ tầng kết nối chưa hoàn thiện, chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành.
Theo đó, vận tải đường bộ vẫn là phương thức hoạt động chính, trong khi đó hạ tầng đường bộ đang bị quá tải, xuống cấp, các phương thức vận tải khác chưa phát triển. Các dự án đường cao tốc, đường vành đai 3 và đường vành đai 4 chậm tiến độ ở khu vực phía Nam.
Theo tính toán, khoảng 20% số đường bộ tại Việt Nam được xây dựng hiện đại và đáp ứng được yêu cầu của ngành logistics. Trong khi đó, hơn 50% số đường bộ ở tình trạng kém chất lượng và không đảm bảo an toàn cho vận chuyển hàng hóa.
Theo báo cáo của Bộ Giao thông vận tải, có khoảng 20% số cảng biển tại Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của ngành logistics, trong khi hơn 50% số cảng biển chịu tình trạng quá tải và thiếu hụt các tiện ích phục vụ logistics. Với hàng không, khoảng 30% số sân bay tại Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của ngành logistics nhưng hơn 40% số sân bay ở tình trạng quá tải và thiếu hụt các tiện ích.
Cùng với đó, “các cảng biển và sân bay chưa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của ngành logistics, dẫn đến tình trạng quá tải và chậm trễ trong thủ tục xếp dỡ hàng hóa”, đại diện Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn đánh giá.
Các cơ sở kho bãi cũng chưa đủ số lượng và chưa được đầu tư đầy đủ về cơ sở vật chất, gây khó khăn trong việc lưu trữ và quản lý hàng hóa.
Hiện chỉ có khoảng 10% số cơ sở kho bãi tại Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của ngành logistics, trong khi hơn 50% số cơ sở kho bãi phải chịu tình trạng quá tải và thiếu hụt các tiện ích phục vụ logistics. Các cơ sở kho bãi tại Việt Nam cũng chưa đạt tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và an toàn phòng cháy chữa cháy, gây khó khăn cho việc lưu trữ và quản lý hàng hóa.
Ngoài ra, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, logistics chưa đồng bộ, chưa mang tính tập trung, chuyên môn hóa cao, gây lãng phí tài nguyên và làm tăng các chi phí. Quy hoạch các khu vực công nghiệp, sản xuất còn chồng chéo với khu dân cư, gây tình trạng mất an toàn cho người dân. Hiện vẫn còn nhiều dự án treo theo quy hoạch các dự án bất động sản thay vì ưu tiên tập trung cho phát triển hậu cần logistics, cảng biển.
Lực cản thứ haichính là nguồn nhân lực. Ngành logistics gặp khó khăn trong đào tạo nhân lực chất lượng cao cũng như thu hút và giữ chân nhân viên có năng lực và kinh nghiệm trong lĩnh vực logistics.
Lực cản thứ balà hệ thống chuỗi cung ứng. Hệ thống chuỗi cung ứng chưa hiệu quả và chuyên nghiệp để đảm bảo hàng hóa được vận chuyển một cách nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm chi phí; chưa có hệ thống thông tin và công nghệ hiện đại để giám sát, quản lý chuỗi cung ứng chuyên nghiệp và hiệu quả.
Lực cản thứ tư là một số khó khăn khác của các doanh nghiệp logistics. Về số lượng và quy mô doanh nghiệp tham gia cung ứng dịch vụ logistics, tính chung cả nước có hơn 30.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực logistics, trong đó hơn 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics 3PL (thuê công ty bên ngoài để thực hiện các hoạt động logistics). Tuy có số lượng lớn, các công ty logistics Việt Nam mới đáp ứng được 25% nhu cầu nội địa và chỉ tập trung một vài ngành dịch vụ trong chuỗi giá trị dịch vụ có doanh số tỷ USD.
TẬN DỤNG ƯU THẾ TỰ NHIÊN ĐỂ PHÁT TRIỂN
Dù còn nhiều hạn chế nhưng ngành logistics Việt Nam tiếp tục ghi nhận những bước tiến đáng kể, với tốc độ bình quân từ 14 - 16%/năm, quy mô 40-42 tỷ USD/năm với nhiều điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển dịch vụ logistics.
Theo nhìn nhận của TS. Đặng Vũ Thành, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Kho vận miền Nam (Sotrans), Phó Chủ tịch VLA, Việt Nam có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý rất thuận lợi, cần tận dụng để phát triển dịch vụ logistics.
Do có bờ biển dài nằm trên những tuyến đường vận tải hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới, Việt Nam có lợi thế lớn cung cấp dịch vụ logistics quốc tế cho Lào và đặc biệt là Campuchia khi hàng hóa đi và đến Campuchia từ Trung Quốc, các nước ASEAN và Mỹ qua các cụm cảng phía Nam của Việt Nam sẽ không phải vòng qua cảng Sihanoukville bằng một chặng tàu gom hàng rồi tiếp tục đi trên 200 km bằng đường bộ đến Thủ đô Phnom Penh.
Về đường bộ, Việt Nam nằm trên tuyến đường bộ xuyên Á kết nối giữa Quảng Đông và Thượng Hải, các trung tâm sản xuất hàng hóa tiêu dùng và công nghiệp của Trung Quốc với các nước ASEAN. Khi đi qua lãnh thổ phía Bắc của Việt Nam, tuyến đường xuyên Á này tạo thành một đường thẳng, cung cấp một giải pháp vận tải có thời gian chuyển tải nhanh hơn đường biển và cước phí vận tải rẻ hơn đường không cho hàng hóa vận tải xuyên Á.
Với những lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên mang lại cùng với sự phát triển kinh tế trong hàng chục năm qua, các doanh nghiệp logistics Việt Nam có thể tham gia vào dòng chảy hàng hóa quốc tế và khu vực.
Đưa ra giải pháp đột phá phát triển lĩnh vực logistics, lãnh đạo Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn nêu bật nhóm giải pháp về quy hoạch, cơ sở hạ tầng, chính sách...
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 34-2023 phát hành ngày 21-08-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
TP.HCM thành lập tổ công tác tháo gỡ vướng mắc “siêu dự án” chống ngập
Tổ công tác tháo gỡ vướng mắc dự án giải quyết ngập do triều cường khu vực TP.HCM có xét tới yếu tố biến đổi khí hậu, giai đoạn 1 (thường gọi là dự án chống ngập 10.000 tỷ đồng) gồm 9 thành viên, do Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP.HCM Bùi Xuân Cường làm tổ trưởng...
Tập đoàn xây dựng Thái Bình Dương, Trung Quốc, muốn "làm tổ" ở Thanh Hóa
Ngày 22/8, tại trụ sở Tỉnh ủy Thanh Hóa, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Doãn Anh đã tiếp và làm việc với ông Nghiêm Giới Hòa, người sáng lập Tập đoàn Xây dựng Thái Bình Dương (Trung Quốc), Chủ tịch Viện nghiên cứu Trang Nghiêm.
Nghiên cứu bổ sung xử phạt lao động công ích trong vi phạm giao thông
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu các bộ, ngành, địa phương bám sát quy định mới để triển khai kế hoạch bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; giao Bộ Công an phối hợp Bộ Tư pháp nghiên cứu bổ sung hình thức xử phạt lao động công ích trong Luật Xử lý vi phạm hành chính...
Đồng Nai đồng loạt khởi công nhiều dự án nhà ở xã hội
Loạt dự án nhà ở xã hội ở Đồng Nai vừa được đồng loạt khởi công vào ngày 21/8/2025, cung cấp khoảng 5.500 căn hộ cho người lao động trên địa bàn các huyện Nhơn Trạch, Trảng Bom cũ, nay là các xã tương ứng.
Chiến lược “kiềng ba chân” để logistics xuyên biên giới vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung tăng tốc
Hạ tầng logistics miền Trung hiện vẫn thiếu tính đồng bộ; kết nối giữa cảng biển - đường sắt - đường bộ - hàng không dù đang được đẩy mạnh đầu tư nhưng vẫn chưa phát huy hiệu quả tương xứng, khiến chi phí vận tải cao hơn so với mức trung bình khu vực. Trung tâm logistics hiện đại, có khả năng kết nối đa phương thức còn rất ít...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: