“Tấm hộ chiếu xanh” cho doanh nghiệp mở rộng thị trường và tiếp cận người dùng
Tùng Dương
28/08/2025, 06:10
Nhãn sinh thái được ví như là “tấm hộ chiếu xanh” giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiếp cận người tiêu dùng có trách nhiệm, đồng thời mang lại cơ sở lựa chọn an toàn, chất lượng cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, kết quả áp dụng nhãn sinh thái ở nước ta hiện vẫn còn khiêm tốn...
Nhãn sinh thái được ví như là “tấm hộ chiếu xanh” giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường. Ảnh minh họa.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang
gây ra những hệ lụy ngày càng nặng nề, ảnh hưởng tới sức khỏe, sản xuất và tiêu dùng bền vững trở thành
yêu cầu bắt buộc. Doanh nghiệp phải đổi mới sản xuất, giảm phát thải, tiết kiệm
tài nguyên; người tiêu dùng cần ưu tiên sản phẩm xanh, thân thiện môi trường.
Đây cũng là định hướng lớn mà Đảng và Nhà nước đã khẳng định nhằm xây dựng nền
kinh tế xanh, tuần hoàn.
ÁP DỤNG NHÃN SINH THÁI VẪN CÒN KHIÊM TỐN
Nhấn mạnh tầm quan trọng của công cụ này, tại tọa đàm về
thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua nhãn sinh thái ngày 27/8/2025, ông
Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và
Môi trường, khẳng định chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu khi thế giới cùng lúc
đối mặt ba cuộc khủng hoảng môi trường lớn. Việt Nam đã có khung chính sách khá
đầy đủ, từ Văn kiện Đại hội XIII, Nghị quyết 24, Kế hoạch hành động quốc gia về
kinh tế tuần hoàn đến Chương trình Nhãn sinh thái Việt Nam triển khai từ năm
2009.
Đáng chú ý, theo các khảo sát, hiện nay nhận thức tiêu dùng
cũng thay đổi khi 86% người Việt sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản phẩm thân thiện
môi trường, 62% quyết định mua bị tác động bởi cam kết xanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các Hiệp định thương mại tự do và yêu cầu môi trường ngày càng khắt
khe từ Liên minh châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc cùng với xu thế chuyển đổi số, ứng dụng AI
đang tạo sức ép và cơ hội cho quá trình chuyển đổi.
Tuy nhiên, ông Thắng nhận xét: kết quả áp dụng nhãn sinh
thái sau hơn 20 năm vẫn khiêm tốn. Đến năm 2017, Việt Nam có 17 tiêu chí Nhãn
xanh, trong đó 7 tiêu chí áp dụng cho 112 sản phẩm; giai đoạn 2024 - 2025 chỉ
thêm 13 sản phẩm được chứng nhận. Người tiêu dùng trong nước vẫn quan tâm nhiều
hơn đến an toàn thực phẩm, trong khi rào cản công nghệ, chi phí và thủ tục hành
chính tiếp tục là trở ngại lớn.
Kết quả áp dụng nhãn sinh thái vẫn còn khiêm tốn. Ảnh minh họa.
Chia sẻ vấn đề này, ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi
trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, chỉ rõ nhãn xanh, nhãn sinh thái là công cụ
chính sách môi trường quan trọng, được nhiều quốc gia áp dụng thành công như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan hay các nước châu Âu. Công cụ này giúp
doanh nghiệp chuyển đổi từ sản phẩm gây ô nhiễm sang sản phẩm xanh, đồng thời hỗ
trợ người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa thân thiện, bảo vệ sức khỏe.
Tại Việt Nam, hệ thống pháp lý về nhãn xanh được hình thành
từ Luật Bảo vệ môi trường 2005, 2014 và hoàn thiện trong Luật 2020. Năm 2009,
chương trình thí điểm được triển khai, tập trung vào hai nhóm sản phẩm: sản phẩm
được chứng nhận nhãn xanh Việt Nam và túi ni lông thân thiện môi trường (gồm
túi phân hủy và túi tái chế).
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành tiêu chí cụ thể cho
các nhóm này, một số doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận nhưng số lượng còn hạn
chế.
Phân tích nguyên nhân tình trạng này, ông Nam cho rằng chủ yếu
là do năng lực doanh nghiệp trong nước còn yếu, thiếu nguồn lực đổi mới công
nghệ, chính sách ưu đãi chưa rõ ràng, nhiều quy định mới dừng ở luật mà thiếu
văn bản hướng dẫn. Chẳng hạn, Luật quy định thuế bảo vệ môi trường 40.000 đồng/kg
đối với túi ni lông khó phân hủy, nhằm hạn chế sản xuất và khuyến khích túi
sinh học. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cơ sở nhỏ lẻ vẫn trốn thuế và tiếp tục
sản xuất loại túi này.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã tích hợp các quy định về nhãn
sinh thái thành một hệ thống thống nhất - Nhãn sinh thái Việt Nam, đồng thời bổ
sung ưu đãi với sản phẩm, dịch vụ xanh. Đáng chú ý, các dự án đầu tư công khi mời
thầu sẽ ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường. Đây được coi là bước tiến quan
trọng, kỳ vọng sẽ thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn vào sản xuất xanh, bền
vững.
CẦN HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐỂ PHÁT TRIỂN NHÃN SINH THÁI
Xây dựng nhãn sinh thái không phải mới, bởi ngay cả trước
khi Luật Bảo vệ Môi trường và chính sách thuế, phí môi trường ra đời, vấn đề
này đã được đề cập. Tuy nhiên, việc triển khai nhãn sinh thái hiện vẫn còn nhiều
khía cạnh cần bàn.
Theo PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, Nghiên cứu viên cao cấp, Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu, trước hết phải nói đến
vai trò của doanh nghiệp - chủ thể chính trong việc thực hiện nhãn sinh thái.
Doanh nghiệp cần có khả năng đáp ứng các tiêu chí, quy định mà nhãn sinh thái đặt
ra. Việc chuyển đổi từ sản phẩm chưa có nhãn sang sản phẩm được dán nhãn là cả
một quá trình dài và tốn kém.
PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh lấy ví dụ, một sản phẩm son làm từ hoa hồng được
dán nhãn sinh thái của châu Âu có giá thành cao gấp nhiều lần so với sản phẩm
không có nhãn. Để đạt được điều này, doanh nghiệp phải đầu tư toàn diện, từ nguồn
nguyên liệu, tiêu chí sản xuất, công nghệ, quy trình đến nâng cao nhận thức.
Cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái, dựa trên hai hướng song song vừa kích cầu, vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung.
Hoặc như sản phẩm màn hình máy tính của Nhật Bản, ngoài chứng
nhận ISO 9.000 đảm bảo chất lượng sản phẩm, còn có ISO 14.000 gắn với nhãn sinh
thái, vừa đảm bảo chất lượng, vừa an toàn cho người dùng. Theo PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, để nâng từ ISO 9.000 lên ISO 14.000, doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí và
công nghệ rất lớn.
Ngoài vai trò của doanh nghiệp, liên quan đến thị trường
tiêu dùng, cần có định hướng trong việc quảng bá, xây dựng hình ảnh sản phẩm để
thu hút người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm dán nhãn sinh thái.
Nhấn mạnh yếu tố chính sách, PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh cho biết thực
tế, chính sách của Việt Nam thường có độ trễ. Sau khi Luật Bảo vệ Môi trường được
ban hành cùng với các văn bản hướng dẫn trong định hướng chuyển đổi xanh, vẫn
còn nhiều điểm phải điều chỉnh. Điều này cho thấy dù chính sách về môi trường
đã có bước tiến, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn vẫn gặp nhiều điểm nghẽn cần
tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ.
Theo PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, mối quan hệ giữa các chính sách cần được
tăng cường để hình thành cơ chế rõ ràng, giúp doanh nghiệp hiểu, nắm vững và thực
sự có khả năng áp dụng nhãn sinh thái. Cần có những chính sách đặc thù, mang
tính thời điểm để thúc đẩy phát triển sản phẩm xanh, như các chính sách ưu đãi
về thuế, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xanh.
Theo chuyên gia, trên thực tế, việc tạo lập thị trường cho sản
phẩm xanh vẫn còn nhiều khó khăn, chưa hình thành được một thị trường nền tảng.
Vì thế, cần có những giải pháp đột phá để thu hút người tiêu dùng, như tăng cường
truyền thông, quảng bá sản phẩm xanh. Ngoài ra, phải hoàn thiện hành lang pháp
lý, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tiêu dùng sản phẩm
xanh, như các quy định về môi trường, tiêu chuẩn sản phẩm xanh…
Đưa ra giải pháp phát triển thị trường nhãn sinh thái, ông
Nguyễn Trung Thắng cho rằng cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị
trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái, dựa trên hai hướng song song vừa kích cầu,
vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung.
Theo các chuyên gia, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua nhãn sinh thái là sự kết hợp giữa trách nhiệm doanh nghiệp, lựa chọn thông minh của người dân và vai trò hỗ trợ từ Nhà nước.
Chứng nhận nhãn sinh thái Việt Nam cho các sản phẩm, dịch vụ
16:50, 05/08/2025
"Nhãn xanh Việt Nam": Xu thế mới trong phát triển xanh
09:49, 20/04/2017
Tiêu dùng xanh và cuộc chiến "xanh thật” - "xanh giả”
Cơ hội huy động đầu tư và tài chính xanh, mở rộng mô hình làm mát
Triển khai giải pháp làm mát bền vững không chỉ cần thiết cho sức khỏe cộng đồng và phát triển xanh, thực hiện các mục tiêu khí hậu mà còn tạo cơ hội kinh tế và thu hút vốn xanh. Thị trường làm mát ở các nền kinh tế đang phát triển được định giá khoảng 300 tỷ USD và dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050, đồng thời mở ra cơ hội huy động thêm đầu tư và tài chính xanh...
Tuần lễ Tài chính và Công nghệ Đà Nẵng: Một trung tâm, hai điểm đến
Ngày 28/8, tại Đà Nẵng, khai mạc "Tuần lễ tài chính và Công nghệ 2025" với chủ đề: “Kết nối Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam với mạng lưới tài chính toàn cầu”do UBND TP. Đà Nẵng phối hợp Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương tổ chức...
Kinh nghiệm cho Việt Nam từ cải cách thị trường carbon Kazakhstan
Để vận hành thị trường carbon hiệu quả, các yếu tố quan trọng bao gồm phân bổ hạn ngạch miễn phí, giữ giá carbon ở mức phù hợp và sự tham gia của định chế tài chính...
Thanh Hóa: Lũ sông Bưởi dâng cao, hàng trăm hộ dân phải sơ tán khẩn cấp
Do ảnh hưởng hoàn lưu bão số 5, từ rạng sáng 27/8, trên địa bàn xã Kim Tân, Thanh Hoá xuất hiện mưa lớn. Nước từ thượng nguồn đổ về khiến sông Bưởi dâng cao, gây ngập lụt trên diện rộng và đe dọa an toàn đê điều.
Cân nhắc lộ trình tăng giá dịch vụ thu gom xử lý rác thải tại Hà Nội
Việc điều chỉnh giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt là cần thiết và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, điều quan trọng là lộ trình, mức tăng phù hợp, gắn với chất lượng dịch vụ. Theo đề xuất của dự thảo, mức giá thu gom rác tại Hà Nội nếu được ban hành áp ứng sẽ tăng hơn 7 lần so với hiện hành...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: